Đề Xuất 6/2023 # Ba Thế Hệ Của Bộ Môn Giải Tích # Top 12 Like | Asianhubjobs.com

Đề Xuất 6/2023 # Ba Thế Hệ Của Bộ Môn Giải Tích # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Ba Thế Hệ Của Bộ Môn Giải Tích mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Quá tình phôi thai và sự hình thành Bộ môn Giải tích Đội ngũ giảng dạy Toán học đầu tiên ở bậc đại học của nước ta gồm có các thầy:

Lê Văn Thiêm

Nguyễn Thúc Hào

Nguyễn Cảnh Toàn

Hoàng Tụy

Ngô Thúc Lanh

Khúc Ngọc Khảm

Hoàng Phương

Kể từ năm 1954 sau ngày hòa bình lập lại nước ta đã có Trường Đại học Sư phạm khoa học (1954-1956) do GS Lê Văn Thiêm làm hiệu trưởng. Sau hai năm tồn tại và đào tạo được hai khóa, Trường Đại học Sư phạm khoa học lại được tách thành hai trường là  Đại học Tổng hợp Hà Nội và  Đại học Sư phạm Hà Nội. Đại học Tổng hợp Hà Nội có hai khoa Khoa Tự nhiên và Văn Khoa. Khoa Tự nhiên do GS Lê Văn Thiêm làm chủ nhiệm  khoa . Năm 1961, theo quyết định của Bộ Giáo dục khoa Tư nhiên được tách ra thành hai khoa  khoa Toán lý do G.S Hoàng Tụy làm chủ nhiệm khoa và khoa Hóa vạn do G.S Nguyễn Hoán làm chủ nhiệm khoa.

Đến năm 1965 , khoa Toán-Lý lại tiếp tục được chia đôi để thành lập khoa Toán và khoa Vật lý. Khoa Toán do GS Hoàng Tụy làm chủ nhiệm, khoa Toán có bốn bộ môn chuyên ngành là Bộ môn Giải tích,  Bộ môn Xác suất, Bộ môn Cơ học,  Bộ môn Phương pháp tính.

 Thế hệ thứ nhất:

 Bộ môn Giải tích được chính thức thành lập vào năm 1963, chín thành viên đầu tiên của Bộ môn là các thầy: Lê Văn Thiêm, Hoàng Hữu Đường ( Chủ nhiệm Bộ môn), Phan Đức Chính , Nguyễn Thừa Hợp , Phạm Ngọc Thao , Hoàng Gia Khánh , Nguyễn Đăng Tề , Thân Lầu , Phạm Văn Điều .

Có thể nói rằng  trước đó từ khi còn nằm trong biên chế của khoa Tự nhiên và khoa Toán-Lý đã tồn tại nhóm chuyên nghành  Giải tích Toán học gồm các thầy  Nguyễn Thừa Hợp, Hoàng Hữu Đường , Phan Đức Chính, dưới sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của G.S Lê Văn Thiêm . Cách một năm không bổ sung thêm ai, bởi vì thời hạn đào tạo của một khoá học tăng lên 4 năm (bắt đầu từ khoá 4). Năm 1963 lại có ba người tốt nghiệp khóa 4 tiếp tục được cử về bộ môn: thầy Trần Văn Triển (Phương trình đạo hàm riêng), thầy Nguyễn Văn Lâm (Hàm phức), thầy Trần Đức Long (Giải tích hàm). Khoá 5 (1964) có thêm thầy Nguyễn Cát Hồ (Giải tích hàm) được bổ sung về bộ môn.

Vậy là từ bốn, năm người đầu tiên, sau tám năm vừa xây dựng và trưởng thành, Tổ Giải tích trở thành Bộ môn Giải tích với 14 thành viên đều là những sản phẩm ưu tú của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

 Thế hệ thứ hai:

 Năm 1966, những trí thức ưu tú  được gửi đi đào tạo tại các nước Xã hội Chủ nghĩa  đã tốt nghiệp. Về nhận công tác tại bộ môn Giải tích có thầy Nguyễn Thuỷ Thanh (Hàm phức) từ Kharcov, thầy Võ Đức Tôn (Phương trình vi phân) từ Odessa, thầy Nguyễn Thế Hoàn (Phương trình vi phân) từ Voronez, thầy Nguyễn Đình Sang (Hàm phức) tốt nghiệp khoá 7. Từ năm 1968 đến 1971 bộ môn được bổ sung thêm 6 thành viên là các sinh viên các chuyên nghành Toán học được đào tạo ở Trường ĐHTH Hà Nội và các nước Đông Âu, trong đó có hai Phó tiến sỹ. Năm 1968 có thầy Hoàng Quốc Toàn (khoá 9, Phương trình đạo hàm riêng). Năm 1970 có thầy Lê Tiến Tam (khoá 11, Hàm phức), thầy Mai Thúc Ngỗi (PTS, Lý thuyết số) từ Tashkent, Liên Xô. Năm 1971 có thầy Đặng Đình Châu, thầy Trần Văn Nhung tốt nghiệp khoá 12 được bổ sung về nhóm Phương trình vi phân, thầy Trần Huy Hổ (PTS, Moscva) về nhóm Phương trình đạo hàm riêng. Cho đến trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975) có thêm năm người được đào tạo từ nước ngoài được phân công về bộ môn. Năm 1973 có thầy Nguyễn Xuân Dũng, thầy Nguyễn Đình Dũng, thầy Nguyễn Văn Xoa về giải tích hàm từ Bacu (Liên xô) và cô Trần Thị Đệ về phương trình vi phân tốt nghiệp từ Minsk (Liên Xô) về.  Cùng năm 1973 về khoa nhận công tác còn có thầy Nguyễn Văn Mậu từ Minsk với chuyên ngành Giải tích phức, nhưng lại thuộc phiên chế của bộ môn Chuyên Toán, mãi cho đến năm 1991 GS Nguyễn Văn Mậu mới chuyển về bộ môn Giải tích. Năm 1975 thầy Hồ Đức Việt (PTS, Praha, Tiệp Khắc) được phân về nhóm Giải tích hàm.

Năm 1976 về bộ môn có cô Phan Khánh Tâm (Giải tích hàm, Rumani), thầy Nguyễn Hữu Việt Hưng (Giải tích trên đa tạp, khoá 16). Năm 1977 có thầy Huỳnh Mùi (TS,Tôpô Đại số)  từ Nhật Bản về sinh hoạt chuyên môn tại bộ môn Giải tích, tiếp theo là thầy Trần Thiệp (Giải tích hàm, Tashkent). Hai thành viên cuối cùng của thời kỳ bao cấp, thầy Nguyễn Văn Minh và thầy Tôn Quốc Bình, tốt nghiệp khoá 21, khoa Toán, Trường ĐHTH Hà Nội, về bộ môn với chuyên ngành phương trình vi phân. Năm 1999, Tiến sỹ Nguyễn Minh Tuấn (Giải tích phức) chuyển biên chế từ Viện Nghiên cứu Năng lượng hạt nhân về Bộ môn Giải tích (đây có thể xem là trường hợp  hiếm hoi vì sau gần hai mươi năm không có bổ sung lực lượng kế cận) .

 Thế hệ thứ ba:

 Người đầu tiên được vinh dự xếp vào  thế hệ thứ ba là T.S Lê Huy Chuẩn (Giải tích phức).Đây là một trong những người tốt nghiệp cử nhân nghành Toán học của khoa Toán- Cơ – Tin học , Trường Đại học Khoa học Tự nhiên , ĐHQG Hà Nội  được tuyển chọn cho Bộ môn Giải tích  vào năm đầu tiên của thế kỷ 21. Tiếp theo thầy Lê Huy Chuẩn là các thầy giáo tốt nghiệp cử nhân nghành Toán học của khoa Toán- Cơ – Tin học , Trường Đại học Khoa học Tự nhiên , ĐHQG Hà Nội đó là T.S. Dư Đức Thắng, T.S. Đặng Anh Tuấn, Th.S Ngô Quốc Anh (Phương trình đạo hàm riêng), T.S. Lê Huy Tiễn, T.S. Trần Tất Đạt (Phương trình vi phân), T.S. Ninh Văn Thu (Giải tích phức), Th.S Hoàng Tùng (Phương trình đạo hàm riêng), Th.S Nguyễn Đăng Mạnh, Th.S Vũ Nhật Huy (Giải tích hàm), Th.S Chử Văn Tiệp (Giải tích phức), thầy Trịnh Tuấn Phong (Phương trình đạo hàm riêng), Th.S Phạm Việt Hải, Th.S Trịnh Viết Dược (Phương trình vi phân). Tiếp nối các Thầy thuộc thế hệ thứ hai của bộ môn Giải tích, về công tác tại Bộ môn có cô Đỗ Ngọc Hồng, Th.S Phạm Trọng Tiến, Th.S Nguyễn Thương Huyền (Giải tích hàm) được đào tạo tại Liên Bang Nga (thuộc Liên Xô cũ).  Sự đóng góp của các Thầy giáo thuộc các thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai là vô giá và không kể hết được, để tiếp bước các Thầy và giữ vững truyền thống của bộ môn Giải tích do các thế hệ đàn anh gây dựng và vun đắp, thế hệ trẻ của bộ môn đang ngày đêm miệt mài học tập và nghiên cứu , một số thông tin ngắn gọn sau đây có thể cho chúng ta một “sự nhìn nhận” rõ hơn và xác định rõ hơn trách nhiệm của chúng ta trong niềm tâm sự  đó . Tóm lược một vài thông tin của thế hệ thứ ba :

Các hướng nghiên cứu chính : Giải tích hàm , Giải tích phức, Phương trình đạo hàm riêng , Phương trình vi phân thường.

Số công trình khoa học đã công bố : 71.

Số NCS và T.S đang làm việc ở nước ngoài : 05.

Các giáo trình chính đang trực tiếp tham gia giảng dạy : Giải tích hàm , Giải tích phức, Phương trình đạo hàm riêng , Phương trình vi phân thường.

Các xeminar khoa học đang hoạt động thường xuyên : Các phương pháp giải tích toán học và ứng dung.

Biên soạn: Lược trích từ bài viết của PGS. TS. Trần Huy Hổ

Tàn Tích Quỷ Ám: Giải Mã Mối Quan Hệ Bí Ẩn Đến Ba Thế Hệ

Mối quan hệ giữa ba thế hệ trong một gia đình nhiều bí ẩn – cốt truyện chính của bộ phim kinh dị chiếu rạp Tàn tích quỷ ám vẫn còn nhiều bỏ ngỏ chưa giải đáp được.

# Cảnh báo spoil: Bài viết có thể tiết lộ nội dung. Bạn nên cân nhắc trước khi đọc

Tàn tích quỷ ám (tựa gốc: ) kể về ba phụ nữ thuộc ba thế hệ trong gia đình, gồm bà ngoại Edna (Robyn Nevin), người mẹ Kay (Emily Mortimer) và cô con gái Sam (Bella Heathcote). Trong đó, bà Edna là góa phụ già, sống một mình ở căn nhà gỗ nơi ngoại ô thành phố. Bỗng một ngày, cảnh sát báo tin cho Kay và Sam rằng bà Edna đã mất tích không rõ dấu vết. Hai mẹ con quyết định trở về căn nhà gỗ để cùng cảnh sát tìm kiếm bà.

Khi mọi chuyện tưởng chừng như đa rơ vào ngõ cụt thì bà Edna đột nhiên xuất hiện từ nhà bếp, làm bữa sáng cho cả gia đình và nói chuyện như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Bà thậm chí còn không nhớ mình đã đi đâu, làm gì và lý do mình biến mất. Từ đây, Kay và Sam dần phát hiện ra những sự việc kỳ lạ xuất hiện trong căn nhà, kéo theo đó là hành vi ứng xử kỳ quặc của bà Edna.

Thoạt nhìn, chúng ta thấy cốt truyện của Relic có thể được hiểu theo một cách đơn giản là hai mẹ con phải quay về chăm sóc người bà nhưng không may gặp phải những hiện tượng siêu nhiên bí ẩn nào đó. Tuy nhiên, ẩn sau những thước phim đen tối cộng hưởng với nhiều mảnh ghép còn dang dở, đạo diễn dường như đang che dấu một câu chuyện cốt lõi trần tục và gần gũi với người xem hơn thế.

Bằng việc nhấn mạnh mối quan hệ của ba phụ nữ thuộc ba thế hệ của một gia đình, Tàn tích quỷ ám góp phần lột tả bi kịch của gia đình thời hiện đại. Mặc dù bộ phim không có phản diện thực sự nhưng những thế lực gây nên những bí ẩn thực chất còn đáng sợ hơn thế. Đó là tuổi già và khoảng cách thế hệ.

Dựa vào mối quan hệ xa cách giữa ba thế hệ, có thể thấy tác phẩm không chỉ thiên về hướng đi của dòng phim kinh dị, giật gân đơn thuần mà còn lột tả một câu chuyện đầy đen tối, ám ảnh về bị kịch gia đình hiện đại.

Ngay khi vừa ra mắt, Tàn tích quỷ ám đã được giới phê bình đánh giá rất cao và nhận được đến 100% điểm trên chuyên trang Rotten Tomatoes. Tuy nhiên, mức độ nặng nề trong câu chuyện và những ý nghĩa ẩn dụ kèm theo đã khiến cho bộ phim đầu tay của đạo diễn Natalie Erika James dường như trở nên “khó nuốt” hơn hẳn đối với khán giả đại chứng, nhất là với những ai mong muốn được xem một bộ phim kinh dị nước ngoài đơn thuần với những màn jumscare hù dọa rẻ tiền.

Tàn tích quỷ ám (tựa gốc: ) khởi chiếu từ ngày 17.07.2020 tại tất cả các cụm rạp trên toàn quốc.

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Của Thế Lữ

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, phân tích nội dung, nghệ thuật và các chi tiết trong bài để thấy được nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát vọng tự do mãnh liệt của chàng thanh niên mất nước.

Đề bài

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

-/-

Hướng dẫn làm bài phân tích bài thơ Nhớ rừng

1. Phân tích đề

– Yêu cầu đề bài: phân tích các chi tiết, hình ảnh, nội dung, nghệ thuật của bài thơ để rút ra thông điệp và tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm

– Đối tượng làm bài: bài thơ Nhớ rừng

– Phương pháp làm bài: Phân tích

2. Các luận điểm chính cần triển khai

Luận điểm 1: Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú

Luận điểm 2: Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ

Luận điểm 3: Niềm khao khát tự do mãnh liệt

I/ Mở bài

– Đề tài yêu nước luôn là một đề tài lớn, xuyên suốt trong văn học Việt Nam

– Đối với các nhà thơ Mới, họ thường gửi gắm nỗi niềm thầm kín trong thơ của mình và Thế Lữ cũng vậy, ông gửi gắm nỗi lòng yêu nước thông qua “Nhớ rừng”

II/ Thân bài 1. (Đoạn 1+4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú

– Hoàn cảnh bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi

– Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như muốn nghiền nát, nghiền tan

– “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể ⇒ Sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực

– “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng

⇒ Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán

⇒ Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, căm hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.

– Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang ⇒ tầm thường giả dối

⇒ Cảnh tù túng đáng chán, đáng ghét

⇒ Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ chính là thái độ cú người dân đối với xã hội đó

2. (Đoạn 2+3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ

– Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm

– Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi” ⇒ Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi

⇒ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng

– Bước chân dõng dạc đường hoàng ⇒ vẻ oai phong đầy sức sống

⇒ Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm

– “Nào đâu … ánh trăng tan” ⇒ Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn

– “Đâu những ngày chúng tôi đổi mới” ⇒ Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.

– “Đâu những bình minh…tưng bừng”⇒ cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.

– Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài

⇒ Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng

3. (Đoạn 5): Niềm khao khát tự do mãnh liệt

– Sử dụng câu cảm thán liên tiếp⇒ lời kêu gọi thiết tha ⇒ khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực

⇒ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt

⇒ Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử

III/ Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật chủ đạo làm nên thành công của tác phẩm

– Liên hệ bài học yêu nước trong thời kì hiện nay

Có thể bạn cần: Các đề văn về Nhớ rừng của Thế Lữ thường gặp trong các đề thi

4. Sơ đồ tư duy

Bài tham khảo phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Bài tham khảo 1

Thế Lữ là một trong các cây bút tiên phong, mở đường cho thơ ca hiện đại Việt Nam phát triển. Có thể nói ông là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho thơ mới, dựng lên nền thơ mới cho thi ca dân tộc ở ngay chặng đầu (1930-1935). Thơ ông mang nặng tâm sự thời thế, đất nước nhưng không bế tắc, u buồn mà là tiếng thơ tha thiết, bi tráng. “Nhớ rừng” là một trong những bài thơ được sáng tác theo bút pháp lãng mạn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác Thế Lữ và cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Thi phẩm được sáng tác năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” (1935), tác giả đã mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát vọng tự do mãnh liệt của chàng thanh niên mất nước. Bộc lộ niềm khát vọng được khẳng định cái tôi của chính mình và được phát triển trong một cuộc sống rộng lớn, đất nước tự do. Đó cũng là lời tâm sự chung của những chàng thanh niên trí thức sống trong hoàn cảnh mất nước thời kì đó.

Trước hết, với bài thơ “Nhớ rừng”, Thế Lữ đã xây dựng thành công hình tượng con hổ bị sa cơ lỡ vận, mang vẻ đẹp của người anh hùng chiến bại. Đoạn thơ mở đầu là nỗi đau bi kịch của con hổ ngay trong thì hiện tại:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Nỗi căm hờn là nỗi đau đớn, uất ức, căm phẫn vốn vô hình nhưng qua động từ “gậm” đã trở nên có hình có khối, như có thể nhìn thấy cụ thể. Nỗi căm hờn ấy không chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc mà nó luôn âm ỉ, kế đọng từ rất lâu rồi. Đó là nỗi căm hờn của sự cầm tù “trong cũi sắt” đến mất quyền tự do, chỉ biết “nằm dài” ngao ngắn, tuyệt vọng nhìn ngày tháng trôi qua dần dần mà bất lực. Nỗi đau bi kịch đó của chúa sơn lâm càng được đẩy lên cao trào hơn khi phải sống chung với “bọn gấu dở hơi” và trở thành một món đồ chơi lạ mắt cho “lũ người ngạo mạn”. Hiện tại là thế: sa cơ, tù hãm, bất lực nhưng hổ chẳng bao giờ quên được những năm tháng của thuở trời đất dọc ngang, ngang dọc tung hoành bốn bể năm nào:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội, Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng, Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc, Là khiến cho mọi vật đều im hơi Ta biết ta chúa tể cả muôn loài Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nỗi nhớ đã khơi nguồn cho những cảnh núi rừng bí ẩn lần lượt hiện ra thật tráng lệ, hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình, nên thơ. Đó là cảnh “bóng cả cây ngà”, “tiếng gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi”. Chúa sơn lâm cứ say sưa nhớ lại những kỉ niệm rực lửa, huy hoàng, tự hào và kiêu hãnh khi ấy. Những động từ miêu tả động tác như “bước, vờn, lượn, quắc” kết hợp với hệ thống những từ láy giàu tính chất tạo hình “nhịp nhàng, dõng dạc, âm thầm” đã tạo nên một vị chúa tể rừng xanh vừa mềm mại, uyển chuyển, vừa tự tin, đàng hoàng, lại vừa oai phong lẫm liệt, dũng mãnh phi thường. Và thời gian đó là những ngày tháng đẹp nhất:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan? Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới? Đâu những bình minh cây xanh nắng gội, Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng? Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật? -Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Nỗi nhớ cồn cào da diết cứ dẫn dắt mãnh hổ trở về với quá khứ xa xăm của một thời vang bóng, đó là những đêm trăng vàng bên bờ suối tận hưởng, thả hồn uống ánh trăng đêm; những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, lặng lẽ ngắm mưa rừng dữ dội; những ngày yên bình, thanh thản trong ánh nắng bình minh ngập tràn sắc nắng hay là lúc hả hê, vui thích trong những chiếm lợi phẩm và đợi mặt trời lặn xuống để làm chủ đêm đen. Nghệ thuật điệp cấu trúc (điệp ngữ) kết hợp với câu hỏi tu từ đã xen vừa diễn tả dòng hồi tưởng miên man không dứt; lại vừa thể hiện nỗi nhớ nhung da diết, xen lẫn niềm tiếc nuối xót xa về những ngày tháng được tung hoành, tự do. Vì thế, câu thơ cuối đoạn cất lên như một tiếng thở dài ngao ngán, tuyệt vọng:

“-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Trở về với thực tại tầm thường, giả dối, nỗi chán ngắn, sự khinh bỉ của “chúa tể muôn loài” đã tăng lên đến cao độ. Đó toàn là những khung cảnh giả dối, tầm thường:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng; Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm, Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Vì thế, đoạn thơ cuối là lời nhắn gửi bi tráng của con hổ với chốn nước non hùng vĩ. Một mặt thể hiện niềm xót xa về quá khứ; một mặt khẳng định tâm thế cường tráng, mạnh mẽ của mãnh hổ không gì có thể khuất phục được, ngay cả khi đã bị giam cầm trong cũi sắt:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị Nơi thênh thanh ta vùng vẫy ngày xưa Nơi ta không còn được thấy bao giờ! Có biết chăng trong những ngày ngao ngán, Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn. Để hồn ta phảng phất được gần ngươi, – Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Xét về hình thức nghệ thuật của bài thơ “Nhớ rừng”, cái “mới” của thi phẩm trước hết được thể hiện qua thể thơ tám chữ, gieo vần liền (hai câu liền nhau có vần với nhau), vần bằng, vần trắc hoán vị liên tiếp, đều đặn. Kế thừa thể hát nói truyền thống nhưng “Nhớ rừng” với thể tám chữ đã được dùng linh hoạt, tự do hơn về cách ngắt nhịp, phá bỏ hoàn toàn những qui định niêm luật vận đối cứng nhắc (khi ngắn, khi dài, khi anh, khi chậm…). Ngoài ra ngôn ngữ hình ảnh thơ không còn mang tính ước lệ nữa, thay vào đó rất sinh động, sáng tạo, giàu tính chất trữ tình, biểu cảm. Bên cạnh đó, bài thơ còn sử dụng nhiều các biện pháp tu từ nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, liệt kê, câu hỏi tu từ… Tất cả điều đó đã tạo nên tính nhạc điệu và chất họa cho bài thơ.

Xét về nội dung, bài thơ “Nhớ rừng” đã mượn lời con hổ ở vườn bách thảo để thể hiện kín đáo tâm sự con người thời kì đó. Bài thơ có lời đề từ là “Lời con hổ ở vườn bách thú”những đó thực chất là lời tâm sự, khát vọng tự do mạnh mẽ của thế hệ thanh niên sống trong hoàn cảnh mất nước. Đó là “niềm uất hận ngàn thâu” đối với hiện thực xã hội tù túng, ngột ngạt – một hiện thức khiến con người thấy chán ghét, muốn từ bỏ, thoát ly. Đi liền với sự chối bỏ là niềm khát khao mạnh mẽ được đổi thay, được khẳng định giá trị bản thân mình trong một xã hội bình yên, phẳng lặng. Vì thế, bài thơ không chỉ dừng lại ở việc xây dựng hình tượng con hổ bị giam cầm, nhớ về thời vàng son của mình mà còn gửi gắm trong đó sự lên tiếng của cá nhân, đòi giải phóng cái tôi người nghệ sĩ và mong ước đất nước được hòa bình, tự do, thoát khỏi cảnh nô lệ, ngục tù. Cho nên, có thể nói, bài thơ đã bộc lộ kín đáo, thấm thía tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ Thế Lữ.

Tóm lại, qua bài thơ “Nhớ rừng”, chúng ta thấy được sức sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Thế Lữ, góp phần khẳng định chỗ đứng vững chắc và sự toàn thắng của thơ mới trên văn đàn, đánh dấu một bước ngoặt lớn của thi ca Việt Nam đương đại. Bài thơ đã dựng lên thành công hình tượng chúa sơn lâm thật đẹp, thật bi tráng mang nỗi niềm tâm sự của con người. Vướt thoát khuôn khổ câu chữ trong thơ, bài thơ đã thể hiện sâu sắc thấm thía tình yêu quê hương đất nước của lớp thanh niên đương thời.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Bài tham khảo 2

Bài thơ mượn lời một con hổ ở vườn Bách thú. Đề tài đầy kịch tính. Cảnh ngộ là một thân tù hèn mọn, bất lực, hồn vía là một chúa sơn lâm. Ông chúa này đã hết thời đập phá hung dữ đòi tự do. Ông đã thấm thía sự bất lực và ý thức được tình thế của mình, cam chịu cảnh gậm nhấm một khối căm hờn, nằm dài trông ngày tháng qua, mặc cho thân thể bị tụt xuống ngang cấp với các loài hèn kém. Nhìn bề ngoài, người ta có thể nói con hổ này đã thuần hóa, chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Nhưng đấy chì là bề ngoài thôi, còn thế giới bên trong của mãnh thú, tội nghiệp thay, vẫn ngùn ngụt lửa. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ có dịp tung hoành, có dịp chứng tỏ sức diễn đạt phong phú của Thơ mới khi dựng lại khung cảnh kì vĩ trong mộng tưởng của chúa sơn lâm.

Mối bi kịch thân ở nơi tù, hồn ở giang sơn cũ đã tạo nên chất men ngưỡng mộ đối với hoài niệm. Qua tâm linh của loài hổ, rừng núi hiện lên trong vẻ kì vĩ đắm say. Kì vĩ vì thâm nghiêm bóng cây già; kì vĩ vì dữ dội oai hùng với từ gào, hét, thét, dữ dội; kì vĩ vì hoang vu bí ẩn: hang tối, thảo hoa không tên tuổi, riêng phần bí mật.

Trong cảnh núi rừng kì vĩ đó hiện lên hình ảnh oai linh của một chúa sơn lâm. Trọng tâm của bức tranh rừng này là con hổ. Nhưng trước khi để hổ hiện ra, Thế Lữ đã dựng cảnh để gợi không khí oai hùng, kinh sợ. Vèo đúng lúc tiếng gào thét của thiên nhiên đang ở đỉnh cao dữ dội, chúa sơn lâm xuất hiện. Đầu tiên để thấy bàn chân, một bước chân dõng dạc, đường hoàng. Câu thơ như đoạn phim cận cảnh quay chi tiết, thu hút sự chú ý của khán giả. Sau bàn chân là tấm thân, xuất hiện rất từ tốn nên càng oai hùng, to lớn. Chiều dài của tấm lưng trải ra theo câu thơ, một sự mềm mại tích chứa sức mạnh:

“Lượn tắm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm lá gai, cỏ sắc”.

Cách miêu tả từng động tác, lại tả những động tác có chọn lựa của bàn chân, tấm thân và ánh mắt đã thể hiện được sức chế ngự của mãnh thú trước phong cảnh. Mấy câu thơ sau đã hoàn tất tốt bức chân dung của chúa sơn lâm. Cái oai của chúa rừng còn chế ngự cả cảnh vật khi chúa đã đi qua khiến cho mọi vật đều im hơi. Câu nói kiêu hãnh của loài hổ không có gì quá đáng:

“Ta biết ta chúa tể của muôn loài Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi”.

Chỉ một đoạn thơ này đã đủ nói cái quá khứ oai hùng, giang sơn nhất khoảnh của chúa rừng. Thế Lữ còn dư sức bút, một đoạn nữa cũng của đích ấy, những chi tiết lấy từ sinh hoạt của các ác thú. Óc tưởng tượng của nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới thật phong phú, từ chi tiết thực của đời thú, ông đã dựng được chân dung tâm hồn của vị chúa tể. Có bốn cảnh: đêm trăng – ngày mưa – sáng xanh – chiều đỏ. Bức tứ bình này (Thế Lữ cũng là họa sĩ đã từng học cao đẳng mỹ thuật) ít chi tiết, nhưng nét đậm rõ, màu lên từng mảnh lớn, trong cảnh có cả âm thanh khi tưng bừng tươi sáng, khi câm lặng bí ẩn. Bút pháp tả cảnh ở đây hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Vẫn là tả tập tính của thú nhưng sắc gợi của câu thơ rộng xa, giúp người đọc thấy cái hồn của cảnh và “tâm trạng” con thú.

“Nào đâu những đêm vàng bên suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?”

Sự im lặng thiêng liêng có chút ghê rợn nhưng thật kì ảo quyến rũ: bên suối trăng một mãnh thú uống nước, rình mồi.

Tác giả nâng uy quyền của chúa rừng bằng cách để hắn đối diện với thiên nhiên, tạo hóa trong cả bốn bức tranh đó – đối diện với trăng, với mưa, với bình minh, với hoàng hôn. Và ở cả bốn khung cảnh, con hổ đều ở thế chế ngự – chú ý các động từ tả hoạt động của hổ trong bốn cảnh:

“Say mồi, đứng uống lặng ngắm giang sơn đợi mặt trời chết, để chiếm lấy. . .”

Đẹp nhất, dữ dội, bi tráng nhất là cảnh hoàng hôn. Bức tranh rực rỡ trong gam đỏ: đỏ của máu lênh láng, đỏ của mặt trời gay găt. Tác giả dùng chữmảnhđề chỉ mặt trời, tưởng như mặt trời cũng bé đi trong mắt nhìn loài hổ. Không chết chóc bao trùm, gợi lên do máu lênh láng, do giấy phút hấp hối gay gắt của mặt trời. Chỉ ít phút nữa vũ trụ sẽ chết lặng, ngự trị trong bóng tối, chỉ còn oai linh của hổ. Đấy là điểm cao trào nhất của quyền lực, gần như sự bất tử. trên đỉnh cao huy hoàng của hồi tưởng, hổ đã sực tỉnh cái thân tù:

“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!”

Lời than có sức lay động và ngân vang do sự tương phản ấy. Hùm thiênf khi đã sa cơ… Bản thân sự hồi tưởng này đã cụ thể hóa cảnh ngộ của câu thơ:Gậm một mối căm hờn trong cũi sắt. Một lần hồi tưởng là một lần ý thức thêm sự bất lực, là một lần gậm nhấm thất bại.

“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu Ghét những cảnh không đời nào thay đổi Những cảnh sửa sang tầm thường, giả dối: Hoa chăm, cỏ xén, lối phăng, cây trồng Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu Của chốn ngàn năm cao cả, âm u”.

Niền uất hận đương nhiên là vì tù túng, nhưng cái uất nhất do sự tù túng pây nên là phải chấp nhận cái tầm thường. Hổ nhớ rừng không chỉ là nhớ tự do mà còn là, theo tôi lại là chủ yếu nếu căn cứ vào văn bản của bài thơ, nhớ cái cao cả, cái chân thực, cái tự nhiên. Tới đây, chúng ta gặp thuộc tính của chủnghĩa lãng mạn: vươn tới cái phi thường, cao hơn cuộc sống hàng ngày buồn tẻ, đơn điệu, bé nhỏ trong tầm tay trần tục của con người: hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng. Xuân Diệu thuở ấy từng mơ ước:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”

Đây không phải chỗ để luận cái đúng sai của nhân sinh quan này, chỉ xin nói tới nó như một đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Thế Lữ cũng thường say đắm những cảnh siêu phàm, những tương phản rất xa nhau của thiên nhiên:

“Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay”.

Thơ Thế Lữ, do vậy, nhiều lần đắm vào cảnh tiên. Niềm khát khao của con :hổ nhớ rừng là khát khao trở về với cái kì vĩ, siêu phàm, không chung sống được với cái tầm thường, thấp kém, giả tạo. Đó cũng là vẻ đẹp của nhân cách, tuy rằng mang nỗi khát khao ấy trong mình là đã sẵn niềm thất vọng, vì cái phi thường của các nhà lãng mạn cũng là cái phi thực. Vả lại, siêu phàm cũng dễ đồng nghĩa với cô đơn. Hãy đọc Xuân Diệu:

“Ta là một, là Riêng, là Thứ Nhất Không có chi bè bạn nồi cùng ta …..

Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!

(Hy Mã Lạp Sơn)

Nỗi lòng của Hy Mã Lạp Sơn trong thơ Xuân Diệu cũng là nỗi lòng con hổ trong cũi sắt của Thế Lữ, nó thuộc về bản chất của chủ nghĩa lãng mạn. Quá nhấn mạnh, đến ý nghĩa xã hội, e làm hẹp đi chất nhân bản của bài thơ và cũng làm mờ đi quy luật thẩm mỹ của chủ nghĩa lãng mạn. Còn một lí do nhỏ nữa: Tự do của con hổ là tự do của một ông chúa,Ta biết ta chúa tể muôn loài, khát khao tự do của hổ, qua một loạt hình tượng của bài, là khát khao ngự trị, khao khát tước đoạt tự do của kẻ khác. Cho nên coi hổ trong cũi là thân phận của dân tộc ta e có chỗ khó giải thích khi nói tới tính thống nhất của hình tượng.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Bài tham khảo 3

Thế Lữ tên đầy đủ là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907, mất năm 1989, quê ở Bắc Ninh, được đánh giá là một trong những ngọn cờ tiên phong của trào lưu Thơ mới (1932 – 1945). Với tâm hồn dạt dào cảm xúc cùng khả năng sử dụng ngôn ngữ tài tình, ông đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca Việt Nam. Ngoài tuyển tập Mấy vần thơ xuất bản năm 1935, Thế Lữ còn sáng tác nhiều thể loại khác như truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện đường rừng, kịch… Thời kì tham gia kháng chiến chống Pháp, ông chuyển hẳn sang hoạt động sân khấu và có nhiều công lao trong việc xây dựng ngành kịch nói ở nước ta.

Tên tuổi Thế Lữ gắn liền với bài thơ Nhớ rừng được nhiều người yêu thích. Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú, tác giả đã diễn tả sâu sắc và sinh động tâm trạng uất hận, chán ghét cảnh đời tù túng, tầm thường và nhớ tiếc cuộc sống tự do trong quá khứ. Qua đó kín đáo thể hiện thái độ phủ nhận thực tại nô lệ, khát vọng tự do mãnh liệt và lòng yêu nước thầm kín, thiết tha của nhân dân ta.

Nhớ rừng viết theo thể thơ tám chữ, vần liền (hai câu liền nhau có chung vần). Vần bằng, vần trắc thay đổi nhịp nhàng, đều đặn. Đây là thể thơ được sử dụng khá rộng rãi trong Thơ mới.

Bài thơ có hai hình ảnh tương phản là vườn Bách Thảo, nơi con hổ đang bị giam cầm và chốn rừng núi đại ngàn, nơi nó tung hoành hống hách những ngày xưa. Cảnh trên là thực tại, cảnh dưới là dĩ vãng và cũng là mộng tưởng, khát khao cháy bỏng.

Cảnh ngộ bị cầm tù chính là nguyên nhân tâm trạng chất chứa đầy bi kịch của con hổ. Tính bi kịch thể hiện ở chỗ hoàn cảnh sống hoàn toàn thay đổi nhưng tính cách con hổ chẳng thể đổi thay. Nó không cam chịu cúi đầu chấp nhận hoàn cảnh bởi luôn ý thức mình là bậc chúa tể của muôn loài. Nếu chấp nhận thì nó sẽ không còn là nó. Tâm trạng uất hận, bất bình, giằng xé dữ dội của con hổ bị cầm tù là cảm xúc chủ đạo bao trùm toàn bài và thấm sâu vào từng câu, từng chữ.

Tâm trạng ấy được nhà thơ miêu tả bằng ngòi bút sắc sảo, tài hoa:

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua, ………………………….. Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.”

Đoạn thơ thể hiện nỗi khổ tâm ghê gớm của chúa sơn lâm bị giam cầm lâu ngày trong một không gian bé nhỏ, ngột ngạt.

Ở câu thơ đầu, những thanh trắc đi liền nhau kết hợp với nhịp thơ chậm, ngắt quãng gợi ta liên tưởng đến một mối hờn căm kết tụ thành khối đè nặng trong lòng. Con hổ muốn hất tung tảng đá vô hình ấy nhưng bất lực, đành nằm dài trông ngày tháng dần qua. Những thanh bằng kéo dài ở câu hai phản ánh tình cảnh bó buộc và tâm trạng chán ngán tột cùng của chúa sơn lâm.

Từ chỗ là chúa tể của muôn loài được tôn thờ, sùng bái, tha hồ tung hoành chốn núi non hùng vĩ, nay sa cơ, thất thế, bị nhốt chặt trong cũi sắt, hổ cảm thấy nhục nhằn tù hãm. Chúa sơn lâm bất bình khi bị biến thành trò lạ mắt, thứ đồ chơi của lũ người nhỏ bé mà ngạo mạn, bị hạ xuống ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự… là những hạng vô danh, thấp kém không đáng kể. Vùng vẫy cách nào cũng không thoát, hổ đành nằm dài với tâm trạng bất lực, buông xuôi.

Thực tại đáng buồn khiến cho hổ càng da diết nhớ thuở còn tự do vùng vẫy giữa núi cao, rừng thẳm:

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ Với khi thốt khúc trường ca dữ dội,”

Phủ nhận hiện tại phũ phàng, chúa sơn lâm chỉ còn hai hướng: hoặc trở về quá khứ, hoặc ngưỡng vọng tương lai. Hổ không thể có tương lai mà chỉ còn quá khứ. Hào quang chói lọi của quá khứ tạo nên ảo giác và ảo giác đó được trí tưởng tượng chắp cánh bay bổng tới mức tột cùng.

Chúa sơn lâm thừa hiểu dĩ vãng oanh liệt một đi không bao giờ trở lại. Bởi vậy tâm trạng của nó là vừa tự hào, vừa xen lẫn đau thương, tuyệt vọng.

Những từ ngữ đẹp đẽ nhất, gợi cảm nhất như: bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, hoang vu, bí mật… được tác giả sử dụng để miêu tả khung cảnh hùng vĩ, hoang dã và sức sống mãnh liệt của chốn rừng sâu núi thẳm – giang sơn bao đời của dòng họ chúa sơn lâm. Đó là chốn ngàn năm cao cả âm u, là cảnh rừng ghê gớm không bút nào tả xiết.

Trên cái nền hoành tráng ấy, chúa sơn lâm hiện ra với dáng vẻ oai phong, đường bệ:

“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.”

Những hình ảnh giàu chất tạo hình đã diễn tả sống động vẻ đẹp dũng mãnh, mềm mại, uyển chuyển và sức mạnh bên trong ghê gớm của vị chúa tể rừng xanh giữa núi rừng uy nghiêm, hùng vĩ.

Đoạn ba của bài thơ giống như một bộ tranh tứ bình lộng lẫy miêu tả phong cảnh thiên nhiên trong những thời điểm khác nhau:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối … Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Bốn cảnh: những đêm vàng, những ngày mưa, những bình minh, những chiều lênh láng máu sau rừng, cảnh nào cũng tráng lệ, lần lượt hiện lên trong nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ sa cơ.

Đó là cảnh huyền ảo, thơ mộng của những đêm vàng bên bờ suối, chúa sơn lâm say mồi đứng uống ánh trăng tan. Là những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, chúa sơn lâm lặng ngắm giang sơn… đổi mới. Là cảnh bình minh cây xanh nắng gội chan hòa, rộn rã tiếng chim ca. Cuối cùng là cảnh những chiều lênh láng máu sau rừng thật dữ dội, bi tráng. Vị chúa tể đại ngàn đang ung dung đợi chết mảnh mặt trời gay gắt, để chiếm lấy riêng ta phần bí mật trong vũ trụ bao la. Đại từ ta lặp lại nhiều lần trong bài thơ tạo nên nhạc điệu rắn rỏi, hùng tráng của câu thơ, thể hiện khẩu khí đẩy tự tôn, tự hào của vị chúa tể muôn loài.

Nhưng dẫu huy hoàng đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ là hào quang của dĩ vãng hiện ra trong hoài niệm. Những điệp ngữ: nào đâu, đâu những… lặp đi lặp lại nhấn mạnh sự tiếc nuối của con hổ đối với quá khứ vinh quang. Chúa sơn lâm dường như ngơ ngác, chới với trước thực tế phũ phàng mà mình đang phải chịu đựng. Giấc mơ đẹp đẽ đã khép lại trong tiếng thở dài u uất:

“Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu?”

Tuy nhân vật tự sự trong bài thơ là con hổ, xưng là Ta, (Ta sống mà…, Ta bước chân lên,Ta biết ta…) nhưng thực chất đó là “cái tôi” của nhà thơ lãng mạn bừng thức giữa xã hội tù hãm đương thời.

Đoạn bốn tả cảnh vườn Bách Thảo qua cái nhìn khinh bỉ của chúa sơn lâm. Tất cả chỉ là sự sắp đặt đơn điệu, buồn tẻ, khác xa với thế giới tự nhiên. Càng cố học đòi, bắt chước cảnh đại ngàn hoang dã thì nó lại càng lộ rõ sự tầm thường, giả dối đáng ghét:

“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu, Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.”

Cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt trái ngược với khung cảnh rừng sâu núi thẳm hoang vu nơi nó đã từng ngự trị. Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng là hình ảnh ẩn dụ ám chỉ thực tại của xã hội đương thời. Âm hưởng thơ tỏ rõ tâm trạng chán chường, khinh miệt của số đông thanh niên có học thức trước thực tại quẩn quanh, bế tắc của xã hội lúc bấy giờ.

Ở đoạn cuối cùng, giọng thơ da diết đã đúc kết nỗi niềm tâm sự của chúa sơn lâm:

“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

Nhà thơ phản ánh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khao khát tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại tù túng, ngột ngạt. Bút pháp khoa trương của Thế Lữ đã đạt tới độ thần diệu. Trong cảnh giam cầm, hổ chỉ còn biết gửi hồn về chốn nước non hùng vĩ, giang sơn của giống hầm thiêng ngự trị tự ngàn xưa. Bất bình với hiện tại nhưng không thể thoát khỏi xích xiềng nô lệ vị chúa tể sơn lâm đầy uy vũ ngày nào giờ đành buông xuôi, tự an ủi mình bằng những giấc mộng ngàn to lớn trong quãng đời tù túng còn lại. Một nỗi buồn tê tái thấm đẫm tâm hồn. Than ôi! Quá khứ hào hùng oanh liệt giờ chỉ còn hiện lên trong giấc mộng! Tự đáy lòng vị chúa tể rừng xanh bật thốt lên tiếng than ai oán: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ bị nhục nhằn tù hãm, cũng ngậm một khối căm hờn và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử. Chính vì động đến chỗ sâu thẳm của lòng người nên bài thơ vừa ra đời đã được công chúng nồng nhiệt đón nhận.

Tác giả mượn lời con hổ bị nhốt chặt trong cũi sắt để nói lên một cách đầy đủ, sâu sắc tâm trạng u uất của thế hệ thanh niên trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, vô cùng bất mãn và khinh ghét thực tại bất công, ngột ngạt của xã hội đương thời. Họ muốn phá tung xiềng xích nô lệ để “cái tôi” tự do được khẳng định và phát triển. Nhiều người đọc bài thơ Nhớ rừng, cảm thấy tác giả đã nói giùm họ nỗi đau khổ của thân phận nô lệ. Về mặt nào đó, có thể coi đây là một bài thơ yêu nước, tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu nước trong văn chương hợp pháp đầu thế kỉ XX.

Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, thi hứng cuồn cuộn tuôn trào dưới ngòi bút thi nhân. Đây là đặc điểm tiêu biểu của bút pháp lãng mạn và cũng là yếu tố cốt lõi làm nên sức lôi cuốn mạnh mẽ, chi phối các yếu tố nghệ thuật khác của bài thơ. Bài thơ Nhớ rừng sống mãi trong lòng người đọc. Nhắc đến Thế Lữ, người ta nhớ tới Nhở rừng. Là thi sĩ, chỉ cần điều đó cũng đủ sung sướng, hạnh phúc và mãn nguyện.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Bài tham khảo 4

Một trong những cây bút xuất sắc có mặt ngay từ lúc ban đầu là Thế Lữ. Rất nhiều tác phẩm của ông đã góp phần to lớn cho sự phát triển của Thơ Mới mà tiêu biểu nhất là tác phẩm Nhớ Rừng.

Ở trong Nhớ Rừng, Thế Lữ đã thể hiện một tâm sự u uất, chán nản và khát vọng tự do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.

Trong những ngày đầu mới ra đời, phong trào Thơ Mới đã có những sự phát triển trong cả phong cách và nội dung. Trên các chặng đường phát triển, Thơ Mới đã dần giải phóng khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính “phi ngã” của thi ca cổ điển. Các nhà thơ đã khám phá thế giới bằng chính những giác quan, những cảm xúc rất thực của mình. Đó cũng là lúc xuất hiện cái tôi rõ nét trong thơ. Ở đó là sự vươn lên của những cảm xúc mãnh liệt của con người vượt thoát khỏi thực tế khách quan. Chính vì vậy Thơ Mới có khuynh hướng thoát ly thực tại, thể hiện tâm trạng bất hoà, bất lực trước thực trạng xã hội. Qua đó, Thơ Mới cũng đã bộc lộ sự phản kháng gay gắt trước thực tại tầm thường giả dối, tù túng giam hãm ước mơ con người.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Cùng chung thái độ phản kháng ấy, Thế Lữ đã viết nên những dòng thơ đầy tâm trạng trong bài Nhớ Rừng. Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình. Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả hình ảnh đuợc nhắc đến trong bài đều là không gian xoay quanh cuộc sống của con hổ. Thực tế là con hổ đang bị giam hãm trong một cũi sắt và nó cảm nhận cuộc sống của mình chứa đựng những u uất ngao ngán trong cảnh giam hãm tù túng, những cảnh “tầm thường giả dối” ở vườn bách thú. Chính vì thế, nó cảm thấy tiếc nhớ về quá khứ oanh liệt nơi núi rừng hùng vĩ. Đó là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau giữa thực tại và dĩ vãng.

Hổ vốn là loài vật được xem là chúa tể của muôn loài, nhưng nay vì sa cơ mà phải chịu sống cảnh “nhục nhằn” trong cũi sắt. Không gian cuộc sống của vị chúa tể rừng xanh đã bị thu hẹp và từ nay bị biến thành một “trò lạ mắt”, một “thứ đồ chơi” trong con mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị nhạt nhẽo bởi đang phải sống nơi không tương xứng với tư cách của một vị chúa sơn lâm.

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Hổ đã cảm thấy bất lực bởi chẳng có cách nào thoát khỏi cuộc sống tù túng nên cũng đành ngao ngán nhìn thời gian trôi qua một cách vô ích. Nhưng cho dù phải ở trong hoàn cảnh nào thì kẻ thuộc “giống hùm thiêng” cũng luôn biết thân phận thực sự của mình là một vị chúa. Ông ba – mươi đã tỏ thái độ khinh mạn, coi thường trước những sự thiếu hiểu biết về sức mạnh thật sự của thiên nhiên của những con người “ngạo mạn ngẩn ngơ” chỉ biết “giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”. Chán nản làm sao cảnh phải chịu sống ngang bầy cùng với “bọn gấu dở hơi”, với “cặp báo chuồng bên vô tư lự”! Làm sao chịu được cảnh sống cam chịu chấp nhận số phận của những “người bạn” đồng cảnh ngộ. Đó là nỗi buồn, nỗi uất hận dồn nén để làm nên những hờn căm chất chứa trong lòng. Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ huy hoàng của mình:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi Với khi thét khúc trường ca dữ dội…

Con hổ đã tiếc nhớ về thuở “hống hách” nơi “bóng cả cây già”. Đó là nỗi nhớ đau đáu về nơi rừng thẳm. Nhớ rừng là tiếc nhớ tự do, nhớ về “thời oanh liệt”, là nhớ về cái cao cả, chân thực, tự nhiên . Ở chốn nước non hùng vĩ ấy, con hổ đang ngự trị một sức mạnh giữa cuộc đời. Bản lĩnh của một vị chúa sơn lâm luôn thể hiện xứng đáng quyền lực tối cao của mình với sức mạnh phi thường dữ dội. Những gì nó cần phải làm là khiến mọi vật đều phải nể sợ thuần phục. Ở đó, con hổ đã hiện lên với tư thế hiên ngang ngạo nghễ nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp oai phong lẫm liệt giữa núi rừng hùng vĩ:

Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc Trong bóng tối mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật phải im hơi Ta biết ta chúa tể của muôn loài Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi

Vẻ đẹp thật sự của hổ là đây! Từng bước chân, từng tấm thân ,từng ánh mắt đã khơi gợi lên một vẻ vừa dũng mãnh uy nghi vừa nhẹ nhàng uyển chuyển. Trong từng hành động, loài mãnh thú kia đã cho mọi vật thấy được sức mạnh tuyệt đỉnh khiến cho tất cả phải “im hơi”. Cuộc sống tự do giữa chốn rừng thẳm mãi mãi là một điều rất cao quý. Ở đó hổ thực sự được hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên đã dành cho. Đó là những thời khắc mãnh hổ đang “say mồi”, đang ngắm sự đổi thay của “giang sơn”, đang say giấc và đang muốn chiếm lấy riêng “phần bí mật” . Nó đã được thoải mái trong chính giang sơn của mình và khẳng định giá trị thật sự của cuộc sống với những khung cảnh lộng lẫy tươi đẹp nên thơ và cũng đầy sức quyến rũ. Nhưng bây giờ, tất cả cũng chỉ còn là những hoài niệm thuộc về quá khứ. Hổ chẳng bao giờ còn được chứng kiến những cảnh “đêm vàng bên bờ suối”, được nhìn thấy cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, được nghe thấy tiếng chim ca, được đắm mình trong cảnh “bình minh cây xanh nắng gội”, được đợi chờ “chết mảnh mặt trời” của những chiều “lênh láng máu sau rừng”. Những cảnh ấy chỉ để lại trong con hổ những cảm giác tiếc nuối, ngậm ngùi trong sự xúc động mạnh mẽ, dồn dập của những câu hỏi đau đớn xót xa. Nỗi nhớ miên man tuôn trào với cảm xúc về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mơ huy hoàng trong một tiếng than thảm thiết:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu

Được sống lại với những ký ức tươi đẹp ở chốn núi rừng hùng vĩ, hổ chợt nhận ra sự tầm thừơng giả dối của những khung cảnh nơi nó đang sống. Trong cái nhìn ngạo nghễ của hổ là những cảnh “không đời nào thay đổi”, những cảnh đơn điệu nhàm chán do con ngưới sửa sang và cố đòi “bắt chước”. Chúa tể rừng xanh đã tỏ thái độ khinh miệt, chán chường trước những cảnh vật nhỏ bé thấp kém của những sự giả dối nhân tạo. Đó không phải là nơi xứng đáng để sống của một đấng thống lĩnh. Dẫu có cố gắng sửa sang thì đó cũng chỉ là những “dải nước đen giả suối chẳng thông dòng” len dưới những “mô gò thấp kém”, là những “hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” không có gì là “bí hiểm” “hoang vu”. Những cảnh sống ngụy tạo ấy khiến cho hổ càng tiếc nhớ chốn “ngàn năm cao cả âm u”.

Chán ghét cuộc sống thực tại, ôm niềm uất hận không nguôi, hổ khát khao một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng qua đó, chúa sơn lâm đã gởi một lời nhắn tha thiết của mình về núi rừng. Dẫu là đang bị sa cơ nhưng hổ đã không giấu được niềm tự hào khi nói đến chốn “nước non hùng vĩ”. Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về “giấc mộng ngàn to lớn”. Vị chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được mãi sống trong những ký ức, những hoài niệm của những vẻ đẹp một đi không trở lại:

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi

Nỗi lòng của hổ là tâm sự của chàng thanh niên Thế Lữ mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ Mới, mang theo khát khao của con người muốn được sống chính là mình.

Nhớ Rừng không thể thoát ra khỏi nỗi buồn, “tâm bệnh của thời đại” bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.

Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ Rừng đã lan toả một hồn thơ hối thúc và nhiều hình ảnh thơ đầy ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là đã thể hiện một trí tuởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để nói hộ cho những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình. Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, đồng thời khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Bài tham khảo 5

Là một trong những gương mặt đầu tiên của phong trào Thơ Mới, ngay khi xuất hiện Thế Lữ đã gây tiếng vang lớn trên văn đàn với bài thơ Nhớ rừng. Một phong cách hoàn toàn mới, thoát li tính quy phạm ước lệ, đây chính là khởi nguồn của thơ mới. Bài thơ Nhớ rừng là một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của Thế Lữ, ấn chứa nhiều giá trị sâu sắc.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh của chúa sơn lâm với biết bao căm hờn, phẫn uất:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua Với cặp báo chuồng bên vô tư lự

Vốn là chúa tể sơn lâm, ngự trị cả rừng già, nhưng nay lại bị giam hãm, hổ vô cùng đau đớn, phẫn uất, nỗi căm hờn đó đã dồn nén biết bao lâu nay, chứa chất thành hình, thành khối. Kết hợp với động từ gậm càng nói rõ hơn sự phẫn uất của chúa tể sơn lâm. Sao có thể không căm tức cho được khi phải nằm dàitrông ngày dài tháng rộng qua đi. Cay đắng hơn là khi ý thực được sự bất hạnh của bản thân, nhưng vẫn phải nhẫn nhục chịu đựng làm thứ đồ chơi lạ mắt cho mọi người, phải làm bạn với lũ báo chuồng bên trong vườn bách thảo. Nỗi đau này ai có thể thấu cho hết.

Trong hoàn cảnh bị giam cầm, tù hãm nỗi nhớ cảnh sơn lâm càng trở nên cồn cào, da diết và mãnh liệt hơn. Đó là cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già thâm u huyền bí mà chúa sơn lâm ngự trị. Nơi đó mọi uy quyền của nó được phát huy tối đã, chỉ cần một cái quắc mắt cũng làm cho mọi vật im hơi, sợ hãi:

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi

Hình ảnh con hổ trong khổ thơ hiện lên thật uy nghi, lẫm liệt. Tấm thân lượn sóng nhịp nhàng, những bước chân dõng dạc, đường hoàng đã nói lên tất cả quá khứ hào hùng của con hổ. Đại từ nhân xưng ta được sử dụng xuyên suốt khổ thơ, vang lên đầy tự hào, khẳng định quyền uy tuyệt đối của hổ. Trước sức mạnh của chúa sơn lâm mọi vật đều phải kiêng dè, sợ hãi. Khi mắt thần đã quắc tất cả mọi vật đều phải im hơi. Nỗi nhớ rừng thiêng, nơi hổ ta từng ngự trị chính là những năm tháng đẹp đẽ mà nó không bao giờ quên. Đồng thời qua nỗi nhớ đó cũng cho thấy khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng của chúa sơn lâm.

Khổ thơ tiếp theo là một bức tranh đặc sắc, một quá khứ vàng son, tráng lệ của hổ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu

Khổ thơ là các câu hỏi tu từ liên tiếp nhau: đâu những đêm vàng, nào đâu những ngày mưa, đâu những bình minh,… tạo nên sắc thái da diết, khắc khoải. Đặt câu hỏi đó chính là cách gợi nhắc, nuối tiếc về quá khứ vàng son, rực rỡ thuở trước. Biết bao nhớ thương, tiếc nối, bức họa được phác lên đầy màu sắc và ánh sáng: đêm vàng, ánh trăng tan, mưa chuyển bốn phương ngàn, cây xanh nắng gội, tiếng chim ca vang núi,… Quá khứ càng đẹp đẽ, rực rỡ bao nhiêu thì hiện tại lại càng đau đớn xót xa bấy nhiêu. Xưa tung hoành, vùng vẫy, nay bị cầm tù giam hãm. Than ôi, thời oanh liệt đã lùi vào quá vãng. Khổ thơ là bức tranh đẹp đẽ nhất trong tác phẩm, với ngôn ngữ giàu giá trị hình tượng, màu sắc và âm thanh. Nhạc điệu biến đổi linh hoạt, khi du dương khi dữ dội mạnh mẽ. Các câu hỏi tu từ và điệp ngữ được vận dụng một cách tài tình đã nói lên nỗi đau bị tước đoạt quyền tự do và khát khao tháo cũi sổ lồng mãnh liệt.

Trở lại với thực tại, con hổ càng đau đớn, căm ghét hơn khung cảnh giả dối, tầm thường:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu Của chốn ngàn năm cao cả, âm u

Khung cảnh thực tại giả dối, hoa chăm cỏ xén, những mô gò thấp kém không bí hiểm sao có thể sánh được với đại ngàn hoang vu. Cũng chính bởi sự giả tạo của khung cảnh càng làm hổ ta đau đớn hơn, vì khung cảnh đó không xứng với một kẻ làm chúa tể sơn lâm như hổ. Khổ thơ cuối cùng là những lời thơ đầy phẫn uất, đầy đau đớn, và ý thức rõ ràng rằng nơi đó ta sẽ chẳng thấy được bao giờ, mà chỉ có thể hòa vào nó trong giấc mộng mà thôi: “Có biết chăng trong những ngày ngao ngán/ Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn/ Để hồn ta phẳng phất được gần ngươi/ Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”. Bài thơ khép lại bằng lời nhắn gửi da diết, khắc khoải, lời nhắn đó xoáy sâu vào tâm trí người đọc, khiến ta ám ảnh mãi về khao khát tự do, khát khao một cuộc đời tung hoành, không chỉ của riêng con hổ mà còn là của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.

Mượn lời con hổ ở vườn bách thú, Thế Lữ đã thể hiện tâm trạng cua những dân Việt Nam trong quãng thời gian bị mất nước. Bởi vậy tiếng lòng của con hổ cũng chính là tiếng lòng của nhân dân ta lúc bấy giờ. Cái hay và giá trị sâu sắc của văn bản Nhớ rừng chính là ở chỗ đó.

Phân tích lẽ sống trong bài thơ từ ấy của nhà thơ Tố Hữu Phân tích bài thơ Từ ấy ngắn gọn nhất

Phân tích bài thơ Nhớ rừng – ​​​​​​​Bài tham khảo 6

Nhớ rừng của Thế Lữ là một bài thơ hay, tiêu biểu của phong trào Thơ mới và của tác giả trên hai phương diện: tính điêu luyện, phóng khoáng, già dặn của Thơ mới và tình cảm yêu nước kín đáo, âm thầm.

Bài thơ có một cấu tứ độc đáo: mượn lời con hổ trong cũi sắt của vườn bách thú nhớ về nỗi nhớ cảnh rừng xanh và những ngày oanh liệt của ngày xưa để nói lên niềm khao khát những cảnh tượng hùng vĩ, tự nhiên, ghét cảnh chăm sửa giả dối, khát khao được tự do biểu hiện sức mạnh tự nhiên của mình, khao khát được giải phóng cá tính. Bài thơ cũng gửi gắm chút tình cảm đối với thời oanh liệt nhất của đất nước. Bài thơ rõ ràng là lời của con hể rồi nhưng tác giả vẫn cứ chưa rõ thêm: Lời con hổ ở vườn bách thú, để tỏ rằng đây không phải là lời của con người. Lời chua này vừa có tác dụng che mắt, nhưng cũng có ý nhắc nhở các nhà suy diễn chớ suy diễn dễ dãi.

Hai dòng đầu giới thiệu hiện trạng và tình cảm của con hổ:

Gặm một khối căm hờn trong củi sắt, Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.

Gặm chứ không phải ngậm, nghĩa như mình tự gặm nhấm, nhấm nháp khối căn hờn của mình. Nhà thơ nói khối căm hờn, bởi khối là một tình cảm to lớn, nguyên vẹn, chưa tan. Người xưa khi nói tới những tình cảm chưa giải tỏa, những tình cảm u uất thường dùng chữ khối tình. Cái tư thế nằm dài thể hiện sự chán ngán, bất lực, không ra vẻ gì là hể nữa, bởi con thú nào mà chẳng nằm dài được? Con hổ đã đánh mất, hay bị tước mất tư thế uy nghi của nó.

Nhưng đó chỉ là bề ngoài, ơ trong tâm hồn, con hổ vẫn còn nguyên là con hổ với những kỉ niệm mãnh liệt, với những tình cảm ngang tàng.

Sáu dòng tiếp theo nói lên tình cảnh tủi nhục của con hổ, thể hiện ý thực muôn phân biệt với con người và các con vật khác. Còn gì đau khổ hơn là một con hổ – chúa sơn lâm – mà không ai sợ, bị đem dùng làm đồ chơi, và đặt ngang hàng với gấu, báo? Trong khi đó, so với hổ, chúng chi là một lũ ngẩn ngơ, dở hơi, vô tư lự (không suy nghĩ).

22 dòng tiếp kể về tình thương, nỗi nhớ một thời oanh liệt đã mất: Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa. Hai chữ ngày xưa nghe sao mà xa vời, như không bao giờ có thể trở lại!

Đoạn cuối bài thơ thể hiện một tình cảm tha thiết nhưng bi đát, vô vọng. Đã nằm dài trông ngày tháng dần qua rồi lại Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu, và cuối cùng là không còn được thấy bao giơ, mạch tình cảm làm cho nỗi nhớ nhung của tác giả mang ý vị vĩnh biệt.

Nhớ rừng vừa là khát vọng về thiên nhiên, tự do, khoáng đạt, khát vọng làm chủ giang sơn, vừa là tiếng thở dài mang ý vị vĩnh biệt không hòa nhập với thế giới giả tạo. Dù thời oanh liệt không còn nữa, dù nó một đi không trở lại, thì con hổ vẫn mãi mãi thuộc về thời dã mất ấy chứ không cam tâm làm đồ chơi, mua vui cho con người, không hòa nhập vào thời hiện tại.

Bài thơ cũng gửi gắm một tình cảm yêu nước. Nhà phê bình văn học Lê Đình Kị viết: “Trong thơ ca lãng mạn 1932 – 1945 không nói tới tình yêu, không đi sâu vào những tình tự riêng mà gây được tác động mạnh, trước hết phải nhớ đến bài Nhớ rừng nổi tiếng của Thế Lữ. Chuyện con hổ ở vườn bách thú nhưng cũng là chuyện của con người phải sống trong tù ngục của chế độ cũ. Đọc những câu thơ của Thế Lữ, người ta rất dễ liên hệ với thân phận sống trong xiềng xích, bị tước mất tự do, bị trói buộc đủ đường thời Pháp thuộc. Cái quá khứ oai hùng của con hể trước lúc bị giam cầm cũng rất dễ làm ta nhớ tiếc cái quá khứ oai hùng của cha ông. Càng nhớ tới thời oanh liệt, càng thấy uất ức vì phải bị tù hãm, xung quanh toàn những cái nhỏ nhen, tầm thường”. Đó là những lời phân tích chí lí.

Bài thơ đầy ắp những sáng tạo về câu chữ, nhịp điệu. Những từ mới tạo: bốn phương ngàn, giấc mộng ngàn; những từ văn xuôi: bọn gấu dở hơi, len dưới nách những mô gò thấp kém, cảnh rừng ghê gớm,… bên cạnh những từ thi vị. Những câu thơ vắt dòng, dài, với liên từ vốn làm cho ý thơ mở rộng, câu thơ co duỗi thoải mái, khác hẳn thơ luật truyền thống, thể hiện trọn vẹn một đặc điểm của Thơ mới đương thời, đó là tạo dáng lại cho câu thơ tiếng Việt.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Bài tham khảo 7

Thế Lữ với tâm hồn dạt dào cảm xúc cùng với khả năng sử dụng ngôn từ tài tình ông đã có những đóng góp lớn trong phong trào thơ mới. Trong đó tiêu biểu là bài thơ Nhớ rừng. Tên tuổi của ông được gắn liền với bài thơ Nhớ rừng. Ông mượn hình ảnh con hổ bị giam cầm để nói về cuộc sống khao khát tự do của mình. Qua đó thể hiện thái độ phủ nhận thực tại làm nô lệ, khát vọng tự do và lòng yêu nước thầm kín của dân tộc.

Nhớ rừng được Thế Lữ viết theo thể thơ tám chữ, vàn liền, vần bằng, vần trắc thay đổi nhịp uyên chuyển. Mở đầu bài thơ là cảnh ngộ con hổ bị giam giữ trong lồng đây là nguyên nhân tâm trạng chất chứa bao bi kịch của con hổ:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua, Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm. Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm, Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi, Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Hổ là một loài sống quen trong rừng núi hoang dã đồng thời được mệnh danh là chúa sơn lâm vậy mà nay bị giam giữ trong lồng còn làm trò cho lạ mắt , thứ đồ chơi nên con hổ rất u uất và căm phẫn. Nó không cam chịu trước hoàn cảnh bởi nó luôn ý thức mình là chúa sơn lâm nên nơi ở của nó không phải ở đây mà thuộc về núi rừng hoang dã. Nếu nó cam chịu sống trong cảnh tù túng thì chắn hẳn nó không phải là nó nữa. Tâm trạng u uất, bất bình, giằng xé dữ dội trong tâm con hổ bị cầm tù và cảm xúc này đã bao trùm toàn bài thơ.

Đoạn thơ đã hiện nên nỗi khổ tâm của một vị chúa sơn lâm bị cầm tù sống trong khung cảnh ngột ngạt. Trong đoạn thơ này những thanh trắc kết hợp với nhịp thơ chậm càng nhấn mạnh nỗi căm phấn của con hổ đang bị giam cầm. Nhưng nó thật bất lực bởi con người giam cầm nó thật chắc chắn nó đành nằm thở dài và chông ngày tháng đang dần chôi qua.

Đường hoàng là chúa tể của muôn loài được các con vật khác tôn sùng và tung hoành chốn núi non hùng vĩ nay bị sa cơ và bị nhốt trong cái cũi sắt chặt hẹn nó cảm thấy như đang sống trong tù hằn không có chút tự do. Đồng thời nó còn bị làm trò mua vui cho người khác. Nó cảm thấy những con người bé nhỏ ngạo mạn bị hạ xuống như bầy gấu dở hơi,cặp báo chuồng,..là những con vật thấp kém. Nhưng nó không thể làm gì mà nằm thở dài với ánh mắt bất lực nhìn về chốn núi rừng nơi thuộc về mình.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa. Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thốt khúc trường ca dữ dội,

Thực tại phũ phàng càng khiến con hổ nhớ về thuở tung hành của mình. Quá khứ ấy thạt là tự do và đẹp đẽ. Một mình tung hoành khắp chốn rừng sâu chăng phải toan tính lo nghĩ. Con hổ nhớ cảnh “lâm sơn, bống cả, cây già, gió ngàn, với khi thốt khúc trường ca dữ dội,..” . Tác giả đã sử dụng những từ ngũ để miêu tả cảnh hùng vĩ vớ sức sống mãnh liệt. Và chsu sơn lâm thừa hiểu bản thân dĩ vãng oanh liệt sẽ không bao giờ trở lại nên nó chỉ có thể tự hào về bản thân trong quá khứ mà nhớ lại quá khứ tươi đẹp của bản thân.

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc. Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc, Là khiến cho mọi vật đều im hơi. Ta biết ta chúa tể cả muôn loài, Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Trong khung cảnh núi non hùng vĩ ấy con hổ hiện nên một cách oai vệ đường hoàng và có quyền lực. Nó như một thế lực hùng mạnh mà không một loài nào có được nên vì thế nó được rất nhiều con vật khác nể lang và không dám đối chọi lại. Nó tự hào bản thân có đôi mắt thần nên hay hoạt động vào ban đêm. Như vậy ta thấy được con hổ là một con vật cực kì khỏe, quyền lực và ưa thích tự do.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ? Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới ? Đâu những bình minh cây xanh nấng gội, Tiếng chim ca giấc ngũ ta tưng bừng? Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt, Để chiếm lấy riêng ta phần bí mật? Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Từ đay ta thấy được bộ tranh tứ bình rất đẹp đẽ lên thơ. Bốn cảnh: những đêm vàng, những ngày mưa, những bình minh, những chiều lênh láng máu sau rừng, cảnh nào cũng tráng lệ, lần lượt hiện lên trong nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ sa cơ.

Trong khung cảnh huyền ảo và thơ mộng ấy chúa sơn lâm như đang say mồi đứng uống ánh trăng tan. Chúa sơn lâm đứng bên bờ xuối lặng im ngắm cảnh giang sơn thay đổi bốn mùa. Là cảnh bình minh, tiếng chim ca, cảnh chiều lênh láng máu sau rừng. Đại từ “ta” lặp đi lặp lại nhiều lần tạo nên sự rắn rỏi, hùng tráng với sức mạnh lớn của chúa sơn lâm. Dù có huy hoàng đến mấy thì đó cũng chỉ là dĩ vãng nên con hổ chỉ biết thở dài và quay lại hiện tại.

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu, Ghét những cảnh không đời nào thay đổi, Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng; Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm, Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Chúa sơn lâm tỏ ra khinh bỉ cảnh bốn sắc ở vườn Bách Thảo. Đây chỉ là những sự sắp đặt đơn điệu mà không phải tự nhiên thật là buồn tẻ. Nó thấy khi mà con người càng bắt chiếc làm theo thiên nhiên nó càng thấy giả tạo và căm phẫn.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị, Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa, Nơi ta không còn được thấy bao giờ! Có biết chăng trong những ngày ngao ngán, Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi, Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Tác giả đã thể hiện rất thành công tâm trạng của con hổ bị giam cầm và khát vọng tự do mãnh liệt. Trong cái cảnh bị giam cầm con hổ chỉ biết gửi tâm hồn mình về chốn núi non hùng vĩ nơi mà nó được sinh ra và được lớn lên. Con hổ rất bất bình với cuộc sống mất tự do và bị xiềng xích và tù túng. Vì thế mà nó chỉ thốt lên tiếng than oán.

Như vậy ta thấy được tâm trạng của con hổ là tâm trạng chung của người dân Việt nam bị đàn áp và bị cướp đi cuộc sống tự do. Họ khao khát có một cuộc sống tự do vốn dĩ họ có quyền có được. Ấy vậy mà bây giờ chỉ có thể ao ước.

Qua bài thơ này ta thấy được tác giả đã thể hiện rất thành công thể thơ mới đồng thời qua đó nói lên hiện thực cuộc sống bị giặc ngoại xâm, xâm chiến khiến con người và đất nước ta mất tự do đồng thời dân ta bị đàn áp nên rất căm phẫn. Và họ khao khát có một cuộc sống hòa bình tự do.

Giải Hệ Pt Bằng Phương Pháp Thế

Ngày 15 / 12/ 2009Tiết 33: §3.GIẢI HỆ PHƯƠNG TRÌNH BẰNG PHƯƠNG PHÁP A . Mục tiêu:– Giúp HS hiểu cách biến đổi hệ phương trình bằng qui tắc thế.– HS nắm vững cách giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn bằng phương pháp thế – HS không bị túng khi gặp các trường hợp đặc biệt ( hệ vô nghiệm hoặc hệ vô số nghiệm) b. Chuẩn bị:-GV: Bảng phụ có ghi sẵn qui tắc thế, chú ý và cách giải mẫu một số hệ phương trình.-HS: -Bảng phụ nhóm,bút dạ , giấy kẻ ô vuông.C. tiến trình dạy học: Hoạt động 1: tra bài cũ: HS 1: Làm BT 8a(SGK) HS 2: Làm BT 9b(SGK) Hoạt động 2: 1. Quy tắc thế:

– Xét hệ phương trình sau:

– Từ pt (1) , hãy biểu diễn x theo y ?– Lấy kết quả trên thế vào chỗ của x trong pt (2) thì ta sẽ được pt nào ?– Có nhận xét gì về pt vừa tìm được ?– Dùng pt (1′) cho pt (1), pt (2′) cho pt (2)ta được hệ pt nào?– Hệ này như thế nào với hệ (I) ?– Giải hệ pt mới và kết luận nghiệm của hệ đã cho?– Qua ví dụ trên , hãy nêu quy tắc thế?– ở bước 1 ta có thể biểu diễn y theo x được không ? Ta được biểu thức nào ? Ví dụ1:Xét hệ phương trình: (I) x – 3y = 2 (1) -2x + 5y = 1 (2)B: Từ (1) ta có : x = 3y + 2 (1′)vào (2) ta được: -2(3y +2) + 5y = 1 (2′)B: (I) x = 3y + 2 (1′) -2(3y + 2) + 5y = 1 (2′)

Vậy hệ có nghiệm duy nhất là (-13 ; -5)

Quy tắc thế : (SGK)

Hoạt động 3: 2. áp dụng:

– áp dụng quy tắc thế để giải hệ phương trình sau.

– HS đứng tại chỗ trình bày bài dưới sự hướng dẫn của GV.

– GV cho HS quan sát minh hoạ bằng đồ thị của hệ pt này và kết luận.– HS thực hiện ?1(theo nhóm)– Sau đó GV thu bảng nhóm treo lên, HS lớp quan sát ,nhận xét.– Khi giải hệ pt bằng phương pháp đồ thị thì hệ vô nghiệm , vô số nghiệm có đặc điểm gì? – Khi giải hệ pt bằng phương pháp thế thì hệ vô số nghiệm hoặc vô nghiệm có đặc điểm gì? – Đọc chú ý (SGK)– HS đọc VD3 (SGK)– HS làm ?2 và ?3 SGK Ví dụ2: Giải hệ phương trình bằng phương pháp thế (I) 2x – y = 3 (1) x + 2y = 4 (2) Giải : Ta có : (I)

Vậy hệ có một nghiệm duy nhất (2; 1)

?1. Giải hệ pt sau

Nêu các bước giải hệ phương trình bằng phương pháp thế?Làm BT 12a; 13a; 14a(SGK)

Hoạt động 5: Hướng dẫn về nhà:

Nắm vững hai bước giải hệ pt bằng phương pháp thế.Làm BT 13b;14b;15;16(SGK) Đọc trước §4.Giải hệ pt bằng phương pháp cộng đại số.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Ba Thế Hệ Của Bộ Môn Giải Tích trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!