Cập nhật nội dung chi tiết về Bài Thơ Đạt Giải Hay Nhất Năm 2022 mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bài thơ thế này đây :
WHO IS COLORED ?
When I born, I black.When I grow up, I black.When I go in sun, I black.When I cold, I black.When I scared, I black.When I sick, I black.And when I die, I still black.
And you white fellow
When you born, you pink.When you grow up, you white.When you go in sun, you red.When you cold, you blue.When you scared, you yellow.When you sick, you green.And when you die, you gray.And you calling me C O L O R E D ??
Khi sinh ra, tôi đen,
Khi lớn lên, tôi đen,
Khi ra nắng, tôi đen,
Khi thấm lạnh, tôi đen,
Khi lo sợ, tôi đen,
Khi đau ốm, tôi đen,
Và khi chết, tôi vẫn đen.
Còn anh, người da trắng,
Khi sinh ra, anh hồng
Khi lớn lên, anh trắng,
Khi ra nắng, anh đỏ,
Khi thấm lạnh, anh xanh.
Khi lo sợ, anh vàng,
Khi đau ốm, anh tái
Và khi chết, anh xám.
Và anh gọi tôi là DA MÀU ??
( TTS dịch )
Bài thơ tự nó xứng đáng với những lời khen ngợi. Và những chú thích kèm theo lại khiến nó nổi tiếng hơn :
Written by an African Kid
Nominated by UN as the best Poem of 2006
( do một Em bé châu Phi viết Được tổ chức Liên Hiệp Quốc bình chọn là Bài thơ hay nhất năm 2006. )
Tuy nhiên, thay vì vinh danh bài thơ, hai dòng chú thích trên khiến người đọc tỉnh táo đâm ra nghi ngờ vì những thông tin mơ hồ và phi lý chứa đựng trong đó.
– Em bé này tên họ là gì, mấy tuổi, là người nước nào trong số 54 quốc gia của châu Phi ? Hay chí ít là trong số 20/54 quốc gia có sử dụng tiếng Anh của châu Phi ? Sao không nói cụ thể ? Và có phải vì tác giả là một em bé nên bài thơ đã sử dụng một thứ tiếng Anh sai cả mẹo luật với những câu không có hoặc dùng sai động từ ? ( I black, you red, you blue…, I/you cold, I/you sick, I/you born, you calling me … ).
– Tổ chức Liên Hiệp Quốc sao lại làm cái việc bình chọn thơ hay ? Cho dù không phải là một trong 6 cơ quan chính ( trong đó có Đại Hội Đồng, Hội đồng Bảo An, Hội đồng Kinh tế – Xã hội … ) mà chỉ là một tổ chức chuyên môn trực thuộc ( như Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn Hóa – UNESCO- chẳng hạn ) thì cũng chưa hề nghe nói đến việc bình chọn thơ hay bao giờ.
Những nghi ngờ nêu trên tất phải dẫn đến việc đi tìm văn bản gốc và tác giả thựccủa bài thơ.
Poème à mon frère blanc
Cher frère blancQuand je suis né, j’étais noir,Quand j’ai grandi, j’étais noir,Quand je suis au soleil, je suis noir,Quand je suis malade, je suis noir,Quand je mourrai, je serai noir.
Tandis que toi, homme blanc,Quand tu es né, tu étais rose,Quand tu as grandi, tu étais blanc,Quand tu vas au soleil, tu es rouge,Quand tu as froid, tu es bleu,Quand tu as peur, tu es vert,Quand tu es malade, tu es jaune,Quand tu mourras, tu seras gris.
Alors, de nous deux,Qui est l’homme de couleur ?
Thơ gởi người anh em da trắng.
Hỡi người anh em da trắng,
Khi sinh ra, tôi đen,
Khi lớn lên, tôi đen,
Khi ra nắng, tôi đen,
Khi đau ốm, tôi đen,
Và khi chết, tôi sẽ đen.
Còn anh, người da trắng,
Khi sinh ra, anh hồng
Khi lớn lên, anh trắng,
Khi ra nắng, anh đỏ,
Khi thấm lạnh, anh xanh.
Khi lo sợ, anh tái,
Khi đau ốm, anh vàng
Và khi chết, anh xám.
Vậy thì, trong hai chúng ta,
Ai mới là người DA MÀU ??
( TTS dịch )
Đọc kỹ bản tiếng Pháp, so với bản ( dịch/ mô phỏng ? ) tiếng Anh, ta thấy chỉ khác ở nhan đề và câu kết. Khổ 1 bài tiếng Pháp không có hai câu “ Khi thấm lạnh…, Khi lo sợ…” và khổ 2 khác ở hai tính từ “ tái / vàng ” ở hai câu “ Khi lo sợ… , Khi đau ốm”.
Vậy thì, Léopold-Sédar Senghor (1906-2001) là ai ?
Sinh năm 1906 tại Joal, nước Sénégal, L.S. Senghor được biết đến như một nhà thơ đã xuất bản trên 10 tác phẩm liên tục từ 1945, tất cả đều gắn với nền văn hóa da đen. Từ thời sinh viên, Ông đã cùng các bạn chủ trương tờ báo « Sinh viên da đen »(Étudiant noir) và đưa ra khái niệm « négritude »(thân phận da đen), mà Ông định nghĩa là tổng thể các giá trị văn hóa của thế giới da đen, như chúng được diễn đạt trong cuộc sống, trong những định chế và những tác phẩm của người da đen ». Năm 1983, Ông là người châu Phi đầu tiên được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp (Académie française).
Léopold-Sédar Senghor cũng là một nhà chính trị. Ông tham gia chính trường từ năm 1945 khi được bầu làm đại biểu của (thuộc địa) Sénégal tại Quốc hội lập hiến Pháp. Dưới thời tướng de Gaulle, Ông tham gia chính phủ Pháp, năm 1955-1956 Ông là thứ trưởng tại Phủ Thủ tướng, năm 1959 là bộ trưởng.Ông từng là thành viên Ủy ban soạn thảo hiến pháp Cộng hòa Pháp thứ V (1958). Ngày 20/8/1960, Sénégal giành lại chủ quyền, Léopold-Sédar Senghor trở thành Tổng thống đầu tiên của nước cộng hòa non trẻ này và giữ cương vị đó trong năm nhiệm kỳ liên tiếp cho đến khi tự nguyện từ chức vào ngày 31/12/1980. Chính Tổng thống đã sáng tác bài Le Lion rouge (Sư tử đỏ) , quốc ca của nước mình :
…Cho dù kẻ thù đốt cháy biên thùy của chúng ta
Chúng ta đều đồng lòng đứng lên, vũ khí trong tay,
Một dân tộc vững niềm tin thách thức mọi gian khó,
Hết thảy mọi người, già trẻ, gái trai,
Cùng cất cao lời : Chết chứ không tủi hổ !
Léopold-Sédar Senghor còn là một nhà văn hóa hoạt động không mệt mỏi cho sự « đối thoại của các nền văn minh nhân loại » thông qua việc xiển dương ngôn ngữ Pháp giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau để cùng phát triển. Ông là một trong những sáng lập viên của “Tổ chức hợp tác văn hoá và kỹ thuật” (ACCT), thành lập ngày 20/3/1970 tại Niamey (Niger), tiền thân của Tổ chức Quốc Tế Pháp ngữ (OIF) ngày nay.
Đến đây ta có thể « giải mã » con số 2006 trong chú thích của « bài thơ AI DA MÀU ? » nói trên : Năm 2006 là năm kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Léopold-Sédar Senghor và Hội nghị Cấp cao Pháp ngữ ( Sommet de la Francophonie ) lần thứ X họp tại Ouagadougou ( thủ đô Burkina Faso ) năm 2004 đã quyết định chọn năm 2006 lànăm Léopold-Sédar Senghor. Trong ý nghĩa đó, vào năm này, tất cả các nước trong Cộng đồng Pháp ngữ trên khắp thế giới đã tổ chức hàng loạt hoạt động nhằm vinh danh người khởi xướng và liên tục đóng góp vào sự phát triển của tổ chức này. Tại Canada, Quảng trường Léopold Sédar Senghor trong khuôn viên trường Đại học Montréal được khánh thành. Tại Paris, thủ đô nước Pháp, cầu đi bộ Solférino(Passerelle Solférino) bắc qua sông Seine nối liền bảo tàng Orsay ở bờ trái với vườn Tuileries ở bờ phải được đổi tên là Cầu Léopold-Sédar Senghor.
Passerelle Léopold-Sédar SenghorNguồn: ST
Soạn Văn Lớp 8 Bài Chữa Lỗi Diễn Đạt Ngắn Gọn Hay Nhất
Soạn văn lớp 8 bài Chương trình địa phương (phần văn ) Soạn văn lớp 8 bài Luyện tập đưa các yếu tố tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luận
Soạn văn lớp 8 trang 127 tập 2 bài Chữa lỗi diễn đạt ngắn gọn hay nhất
Câu hỏi bài Chữa lỗi diễn đạt tập 2 trang 127
Câu 1 (trang 127 SGK Ngữ Văn 8, tập 2)
Phát hiện và chữa các lỗi lôgic
a) Chúng em đã giúp các bạn học sinh những vùng bị bão lụt quần áo, giày dép và nhiều đồ dùng học tập khác.
b) Trong thanh niên nói chung và trong bóng đá nói riêng, niềm say mê là nhân tố quan trọng dẫn đến thành công.
c) Lão Hạc, Bước đường cùng và Ngô Tất Tố đã giúp chúng ta hiểu sâu sắc thân phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945.
d) Em muốn trở thành một kĩ sư hay bác sĩ?
e) Bài thơ không chỉ hay về nghệ thuật mà còn sâu sắc về nội dung tư tưởng.
g) Trên sân ga chỉ còn lại hai người. Một người thì cao gầy, còn một người thì lùn và béo.
h) Chị Dậu rất cần cù, chịu khó nên chị đã đảm đang, gánh vác mọi trách nhiệm nhà chồng.
Chị Dậu rất nhân hậu, thủy chung nên chị rất mực yêu thương chồng con.
i) Nếu không phát huy những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ xưa thì phụ nữ Việt Nam ngày nay không thể xứng đáng với tám chữ vàng Bác Hồ trao tặng. Đó là “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
– Nếu như không phát huy cao độ những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ xưa thì phụ nữ Việt Nam ngày nay không thể đảm đương được những nhiệm vụ vinh quang và nặng nề đó.
k) Hút thuốc lá vừa có hại cho sức khỏe của chính mình, vừa gây hại cho sức khỏe của những người xung quanh.
Câu 2 (trang 127 SGK Ngữ Văn 8, tập 2)
Hãy tìm những lối diễn đạt tương tự (lỗi lô-gíc) trong bài tập làm văn của mình hoặc của các bạn cùng lớp, trong lời nói hàng ngày hoặc trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Sách giải soạn văn lớp 8 bài Chữa lỗi diễn đạt
Trả lời câu 1 soạn văn bài Chữa lỗi diễn đạttrang 127
a, Trong câu trên đồ dùng học tập không cùng nhóm với quần áo, giày dép vì thế nên sửa thành:
– Chúng em đã giúp các bạn học sinh vùng bão lụt quần áo, gày dép và đồ dùng học tập.
– Chúng em đã giúp các bạn học sinh vùng bão lụt quần áo, giày dép và nhiều đồ dùng sinh hoạt khác.
b, Phạm vi đối tượng trong câu có dạng A nói chung và B nói riêng, khi đó A và B phải cùng loại nhưng trong bài này A và B khác loại. Sửa thành:
– Thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng, niềm say mê là nhân tố quan trọng dẫn đến thành công.
– Trong thể thao nói chung và trong bóng đá nói riêng, niềm say mê là nhân tố quan trọng dẫn đến thành công.
c, Lão Hạc và Bước đường cùng là tác phẩm, còn Ngô Tất Tố là tác giả, hai phạm trù này không thể được xếp cùng làm chủ ngữ. Sửa thành:
– Lão Hạc, Bước đường cùng và Tắt đèn đã giúp chúng ta hiểu sâu sắc thân phận của người nông dân trước cách mạng tháng Tám 1945.
d, Trí thức có nghĩa bao hàm nghĩa của từ bác sĩ. Câu trên sửa thành:
– Em muốn trở thành một kỹ sư hay một bác sĩ.
e, Nghệ thuật bao hàm nghĩa của từ “ngôn từ”. Câu trên sửa thành:
– Bài thơ trên không chỉ hay về nghệ thuật mà còn sắc sảo về nội dung.
g, Một người cao gầy (hình dáng) và một người mặc áo ca rô (trang phục) thuộc hai phạm trù khác nhau, sửa thành:
– Trên sân ga chỉ có hai người. Một người thì cao gầy, còn một người thì béo mập.
h, Cần cù và chịu khó là nguyên nhân của hành động yêu thương chồng con, vì thế không thể dùng từ “nên”. Sửa thành:
– Chị Dậu rất cần cù chịu khó và chị rất mực yêu thương chồng con.
i, Hai vế Nếu… thì vốn để biểu thị quan hệ điều kiện- kết quả nhưng ở đây lại không thể biểu thị quan hệ đó vì những đức tính tốt đẹp không tạo ra ” những nhiệm vụ vinh quang và nặng nề.
– Nếu không phát huy những đức tính tốt đẹp của người xưa thì người phụ nữ Việt Nam ngày nay không thể hoàn thành được những nhiệm vụ vinh quanh và nặng nề đó.
k, Khi câu thể hiện mối quan hệ song đôi vừa A vừa B phải có quan hệ đẳng lập chứ không bao hàm. Sửa thành:
– Hút thuốc lá vừa có hại cho sức khỏe vừa tốn tiền.
Tags: soạn văn lớp 8, soạn văn lớp 8 tập 2, giải ngữ văn lớp 8 tập 2, soạn văn lớp 8 bài Chữa lỗi diễn đạt ngắn gọn , soạn văn lớp 8 bài Chữa lỗi diễn đạt siêu ngắn
Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Đạt 9.5 Điểm
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu trong Văn mẫu THPT để thấy được vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng gắn với 1 thời kháng chiến gian khổ nhưng đằm thắm tình người được tái hiện trong không gian và thời gian qua bài thơ Việt Bắc.
Bài làm phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Mở bài phân tích bài thơ Việt Bắc
Đất nước Việt Nam đã trãi qua những năm đấu tranh kháng chiến để giử gìn độc lập tự do, có những con người thầm lặng góp sức tinh thần trong chiến đấu qua những lời thơ, lời văn thể hiện. Trong các tác phẩm văn chương đó có thể kể đến bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tấm chân tình trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa tình cảm giữa nhân nhân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.
Thân bài phân tích bài thơ Việt Bắc
Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cúng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước.
Tố Hữu một nhà thơ được sinh ra ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ ông đã được học và tập làm thơ.
Tố Hữu được giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc). Giải thưởng Văn học ASEAN (1996). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – nghệ thuật (đợt 1 năm 1996).
Tố Hữu là một nhà thơ – chiến sĩ. Ông làm thơ trước hết vì sự nghiệp của dân tộc, của Đảng. Thơ ông biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng.
Cảm hứng trong thơ Tố Hữu hướng về nhân dân, cách mạng, cảm hứng lịch sử hào hùng của dân tộc, chứ không phải cảm hứng đời tư tư của chính tác giả.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội.
Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ ” Việt Bắc “.
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân một sự kiện lịch sử là trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội.
Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho thơ ca tháng chiến chống Pháp.
Phân tích bài thơ Việt Bắc ta sẽ thấy được tình cảm gắn bó thân thiết giữa người đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với thủ đô kháng chiến, với nhân nhân Việt Bắc.
Bài thơ là khúc tình ca cũng như là một khúc hùng ca về cội nguồn tình yêu quê hương đất nước và thể hiện đạo lí truyền thống ching của toàn dân tộc.
Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
Tác giả cho chúng ta thấy được hình ảnh Việt Bắc với cảnh đẹp và người
Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện một cách sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc qua bao năm tháng chiến đấu với nhân dân nơi này. Một tình cảm gắn bó thân thiết như những người máu mủ ruột già.
Nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ của một người cán bộ sắp phải xa Việt Bắc trở về xuôi. Hình ảnh của Việt Bắc đã hiện lên rất mộc mạc nhưng đã ôm trọn nỗi nhớ của Tố Hữu.
Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, những hình ảnh bản làng mờ mờ trong sương khói, bếp lửa hồng thắp sáng trong đêm, hay những “rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy”, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”…tất cả những nét đẹp bình dị của một vùng rừng núi hoang vui nhưng vẫn ấm áp tình thương, đặc biệt đó là những trái tim con người nơi đây khiến Tố Hữu nhớ nhất, mang đạm nghĩa tình nhất.
Tố Hữu sử dụng thành công lối đối đáp “ta”, “mình”. ” ta về mình có nhớ ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nỗi nhớ không sao quên, không nỡ xa cách nơi mà đã từng gắn bó yêu thương với bao kỉ niệm, cùng dân sống và chiến đấu. Ấn tượng của tác giả về con người Việt Bắc luôn cần cù trong lao động, thủy chung trong tình nghĩa.
Qua đó thể hiện thiên nhiên Việt Bắc với những cảnh đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo từng mùa. Gắn với cảnh tượng đẹp đó là những con người là những con người thật giản dị, đi làm nương rẫy, trồng khoai, trồng sắn…Nhưng tất cả đều góp công, góp sức để chung tay làm nên sức mạnh to lớn, kết thành làn sóng xây nên cuộc kháng chiến trường kì.
Trong hồi tưởng của Tố Hữu Việt Bắc hiện lên đó là hình ảnh những mai nhà” hắt hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.
Câu thơ trữ tình vang lên tạo nên sự đằm thắm gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân.
Qua bài thơ ta cũng thấy được Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu
Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng.
Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó hi sinh đã tạo nên những chiến công, kì tích: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…Tố Hữu đã đi sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy.
Đó là sức mạnh toàn dân, toàn quân kháng chiến, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên:
Bằng những lời thơ trang trọng tha thiết, Tố Hữu đã nhấn mạnh được hình ảnh và vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng nên sức mạnh trong kháng chiến trường kì của nhân dân ta:
Những câu thơ mang đậm nét trữ tình, ca dao sâu lắng về nghĩa tình dân tộc. trong cuộc kháng chiến vĩ đại ấy đã có cụ Hồ soi sáng, có “trung ương, chính phủ luận bàn việc công”, những con người tài giỏi, những lý tưởng cao đẹp, những con đường đúng đắn sáng suốt ấy đã tạo nên sự thắng lợi.
Hình ảnh phân tích bài thơ Việt Bắc trong cảm hứng về ngày mai
Tố Hữu từ tình yêu đối với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào một ngày mai tươi sáng, đặt niềm tin vào sức mạnh của toàn nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của dân tộc:
Những hình ảnh chính là mơ ước khát vọng không chỉ của những người cán bộ kháng chiến mà còn cả nhân dân, tác giả không vì có cái mới mà quên đi những cái cũ, luôn nghĩ về nhau giữa miền xuôi và miền ngược.
Đây cũng chính là lời tác giả muốn nhắc nhở đừng để sự thay đổi của môi trường, khi về thủ đô lại quên đi nghĩa tình năm xưa. Những lời thơ của Tố Hữu đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên những giá trị đó.
Hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách độ hộ của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp. Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận thấy sự đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.
Kết bài phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại thấy được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, nhẹ nhàng, tha thiết được viết lên như một khúc tình ca và trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên mình vì sự độc lập tự do của đất nước. Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện tấm chân tình của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta phải biết ghi nhớ những công ơn của các Anh hùng của dân tộc, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước nước.
Các bạn lưu ý vì 1 số lý do có thể trùng ý tưởng cho nhiều bạn sao chép bài viết trong làm bài thi ( Một số đơn vị giáo dục đã gọi và yêu cầu thây đổi thành tóm tắt ý chính ), nên Sahara buộc phải chỉnh sửa và tóm tắt lại rất nhiều ý chính để các bạn có thể tư duy và viết thêm ý hay hơn, đầy đủ hơn.
Do đó, có thể các bạn đọc thấy đoạn phân tích tương đối ngắn và có thể chưa làm các bạn hài lòng. Chúng tôi rất tiếc vì điều này. Mong các bạn thông cảm và lượng thứ.
Nguồn: Internet
Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Khách Trong Bài Thơ Phú Sông Bạch Đằng Hay Nhất.
Bài giảng: Phú sông Bạch Đằng – Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)
Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.
Bài văn mẫu
Văn học dân tộc đã từng ghi lại biết bao nhiêu những hình tượng đẹp. Là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với bao nỗi trăn trở sục sôi về tinh thần tướng sĩ trong bài hịch bất hủ. Là vua Lí Công Uẩn đầy khảng khái, hi vọng về tương lai đất nước trong Chiếu dời đô. Là bậc khai quốc công thần Nguyễn Trãi hào sảng, khí thế trong Đại cáo bình Ngô. Và khoảng sau 50 năm sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng, có một Trương Hán Siêu đầy hoài niệm về những chiến công trong lịch sử dân tộc trong Phú sông Bạch Đằng. Nhưng để bộc lộ, giãi bày xúc cảm ấy, bậc nho sĩ thời Trần đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật khách, một sáng tạo thành công về mặt nghệ thuật đưa Phú sông Bạch Đằng trở thành một trong số những tác phẩm xuất sắc của thơ văn trung đại.
Và mở đầu bài phú, khách đã xuất hiện trong tâm thế của một đấng mặc khách, tao nhân, một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng, mang theo cái tráng trí bốn phương.
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi
…
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao
Qua những hình ảnh có tính ước lệ, cường điệu giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm khách hiện lên trong dáng vẻ của một con người có tâm hồn khoáng đạt, thích ngao du. Vị mặc khách ấy như thể đang vi vu với gió trăng, trởi bể suốt tháng ngày. Hai từ láy chơi vơi, mải miết càng tô đậm thêm sự say mê, đắm chìm trong giấc mộng hải hồ. Phép liệt kê đã đưa khách viễn du đến những cảnh đẹp của Trung Quốc, rồi lại trở về lướt thuyền tới sông Bạch Đằng. Những vùng đất bắc phương kia, dẫu khách chưa từng đặt chân đến, có khi chỉ biết qua sách vở nhưng đã thể hiện sự hiểu biết rộng của một bậc nho sĩ và cái tráng trí bốn phương của kẻ lãng du. Đi để khám phá thiên nhiên, để mở mang tri thức. Vì thế cứ nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, dù vài trăm trong dạ cũng nhiều nhưng tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Khát vọng, hoài bão được thưởng ngoạn, ngao du cứ thế mà bay bổng. Nên điển tích Tử Trường không phải để học cách ghi chép sử kí, mà là học cái thú tiêu dao. Sự học ấy là để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức và cũng để giãi bày tâm sự.
Thế rồi cảnh ấy cũng hiện ra:
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều
…
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu
Theo cánh buồm lướt nhẹ, khách từ từ qua từng điểm rồi đến với sông Bạch Đằng. Và một cảnh tượng ngỡ ngàng hiện ra trước mắt: một khung cảnh tuyệt đẹp của mùa thu. Bút pháp miêu tả đầy lãng mạn, một bức tranh thủy mặc trên dòng sông đẹp ở từng đường nét. Có cái bát ngát sóng kình muôn dặm của một Bạch Đằng không bao giờ ngơi nghỉ, có cái thướt tha của những con thuyền như đuôi trĩ một màu và cảnh trời, sắc nước mênh mông như hòa lẫn vào nhau của một Bạch Đằng thơ mộng, hiền hòa. Phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, bằng con mắt của người nghệ sĩ và cả cái cảm quan đầy chất họa, Trương Hán Siêu mới vẽ được một bức tranh mùa thu đẹp như vậy. Cho nên cảm xúc cứ tự nó reo vui, thích thú trong tâm hồn của khách hải hồ. Có thể thấy, ngay ở những dòng đầu tiên của bài phú, khách đã tạo nên một tâm thế với tráng trí bốn phương rộng lớn của một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng và một bậc nho sĩ uyên bác.
Niềm xúc cảm trước thiên nhiên đẹp của bậc tao nhân, thi nhân có tráng trí hùng tâm ở trên khiến ta liên tưởng thấy bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn) nhưng họ Trương không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình; thấy cả bóng dáng Cao Bá Quát “Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng/ Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) nhưng môn khách Trần Quốc Tuấn không bộc lộ sự chua xót, bất đắc chí như Cao Tử. Trương Hán Siêu đến với thiên nhiên vừa để thỏa chí lãng du vừa để đáp ứng lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh nước mình và giãi bày niềm tự hào về những công hiển hách của cha ông ta trước đây. Bởi vậy, khách mới hiện lên chân dung của một trí thức yêu nước, nặng lòng với non sông.
Nhưng ngay trong khoảnh khắc hiện tại, đối diện với Bạch Đằng, cảm xúc vui tươi trước vẻ đẹp của nó chẳng còn, bởi khung cảnh của chiến tích năm xưa giờ chỉ là:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
…
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bút pháp tả thực dường như đã vẽ nên một khung cảnh hoàn toàn đối lập. Khách nhìn về trận địa năm xưa sao ảm đạm, thê lương! Những bờ lau, bến lách qua hai từ láy san sát, đìu hiu mà đượm buồn. Dòng sông cuồn cuộn sóng khí thế năm xưa giờ chỉ còn giáo gãy, xương khô mà bi thảm. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn của mặc khách kia bỗng trùng xuống, có ánh mắt u buồn, có cái nín lặng, cúi đầu mà thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi. Cảm xúc thay đổi một cách nhanh chóng đầy thương cảm, bởi sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Mà sau này nhà thơ Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi được điều đó khi tới đây:
Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng
(Cửa biển Bạch Đằng)
Thế là bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Bởi vậy mới có nhân vật các vị bô lão – những người trong cuộc, đã chứng kiến, đã tham gia, giờ đây tái hiện, phục chế lại quá khứ ấy để gieo vào lòng mặc khách niềm tự hào, kiêu hãnh của những chiến thắng lẫy lừng trên dòng sông lịch sử năm xưa. Ca ngợi sông Bạch Đằng là con sông huyền thoại, nổi tiếng nhất quả không sai. Vì hai trận đánh của Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa năm xưa đã không cho kẻ thù một chút hiển vinh, làm lay động cả trời đất, vũ trụ là ở con sông ấy. Biết bao nhiêu cảm hứng lịch sử ùa về trong lời kể. Tuy nhân vật khách không hề tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão, nhưng chúng ta vẫn nhận ra khách tuy ẩn đi mà vẫn hiện ra bằng cảm xúc. Lối kể mang đậm chất ước lệ, cường điệu pha lẫn cảm hứng vũ trụ đã tái hiện sống động, hoành tráng, hào hùng những trận đánh năm xưa. Từ lúc được thua chửa phân, ánh nhật nguyệt phải mờ, trời đất sắp đổi đến khi kẻ thù tan tác tro bay, hoàn toàn chết trụi, nỗi nhục nhã muôn đời không rửa nổi. Đằng sau tất cả là niềm tự hào, hứng khởi của khách. Bao cảm xúc buồn thương trước đó tan biến, nhường chỗ cho sự kiêu hãnh, mãn nguyện, thán phục về một thuở quá đỗi hào hùng, về một truyền thống yêu nước bất diệt không bao giờ mất. Khách cứ thế mà đồng tình với cách cắt nghĩa nguyên nhân những thắng lợi ấy của các vị bô lão. Cũng là một người am hiểu, thấu trọn lẽ đời và cốt lõi lịch sử, khách nhận ra thiên có thời, địa có lợi nhưng nhân phải có hòa mới làm nên được thành công. Và khách dành trọn sự ngợi ca của mình đến những con người anh hùng ấy, đặc biệt là những bậc thánh đế minh vương biết thu phục lòng dân, giữ cuộc điện an bằng đức cao sáng chói mới thấm nhuần được non sông, mới ghi tạc vào lịch sử những chiến công hiển hách đến vậy. Lời ca cuối cùng của khách như âm vang theo nhịp sóng Bạch Đằng:
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao
Phải chăng Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng chảy ra biển Đông cũng là lòng người thi nhân cuồn cuộn sóng? Có cái cuồn cuộn mạnh mẽ về một quá khứ xa xưa, nhưng cũng có cái cuồn cuộn cảm khái, ưu tư về thế thời, xã tắc lúc bấy giờ. Khách bởi vậy mà đã khơi dậy những giá trị lịch sử rất đỗi thiêng liêng của dân tộc, đề cao vị trí, vai trò của con người trong lịch sử nhưng cũng ngầm chuyển tải tâm sự thời thế mà ông chẳng thể nói ra.
Qua bút pháp rất đặc trưng của thơ văn trung đại, nhân vật khách đã được khắc họa thành công trong bài phú, trở thành một hình thượng nghệ thuật đặc sắc của văn học thời kỳ này. Có thể nói, khách đã hội tụ, kết tinh hết thảy những phẩm chất con người của chính tác giả. Khách đã khẳng định cái tôi đậm chất nghệ sĩ hoài cổ mà từ đó giúp Trương Hán Siêu chuyển tải những giá trị tư tưởng có tính lịch sử thiêng liêng và truyền thống vẻ vang của dân tộc trong bài phú.
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k5: chúng tôi
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài Thơ Đạt Giải Hay Nhất Năm 2022 trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!