Cập nhật nội dung chi tiết về Giải Mã 18 Chỉ Số Trong Xét Nghiệm Công Thức Máu (P2) mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thứ Bảy, 01/06/2019
Bài viết này sẽ phân tích 4 chỉ số cơ bản quan trọng tiếp theo của bảng kết quả xét nghiệm công thức máu bao gồm độ phân bố hồng cầu (RDW – CV), số lượng tiểu cầu (PLT), lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCD), nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC)
Độ phân bố hồng cầu (RDW – CV)
RDW tăng, MCV tăng: dấu hiệu của thiếu vitamin B12, thiếu flolate hoặc thiếu máu tan huyết,.. RDW tăng, MCV bình thường: dấu hiệu của thiếu máu RDW tăng, MCV giảm: dấu hiệu của thiếu sắt RDW bình thường, MCV tăng: dấu hiệu của thiếu máu bất sản, trước bệnh bạch cầu. RDW bình thường, MCV bình thường: dấu hiệu của thiếu máu, của bệnh enzym hoặc của bệnh hemoglobin không thiếu máu. RDW bình thường, MCV giảm: dấu hiệu của thiếu máu trong các bệnh mạn tính
Số lượng tiểu cầu (PLT) Số lượng tiểu cầu (hay PLT) là số lượng tiểu cầu được tính trong một thể tích máu. Giá trị bình thường của chỉ số này là từ 150.000 đến 400.000/cm3 (hay 150 – 400 x 109/l)
Số lượng tiểu cầu tăng sau khi chảy máu hoặc sau phẫu thuật cắt bỏ lách,.. điều này có thể dẫn đến các bệnh viêm. Chỉ số PLT giảm trong điều trị hóa chất, khi đông máu hoặc ban xuất huyết sau khi truyền máu. PLT cũng có thể giảm do miễn dịch đồng loại ở trẻ sơ sinh.
Lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCD)
Lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (hay MCD) là số lượng trung bình của lượng huyết sắc tố có trong một hồng cầu. Đối với người ở trạng thái bình thường, chỉ số này có giá trị từ 27 đến 32 picogram.
Khi chỉ số này có giá trị tăng, điều đó cho thấy cơ thể thiếu máu tăng sắc hồng cầu hoặc bị chứng hồng cầu hình tròn di truyền nặng,.. Khi lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu giảm, điều này cho thấy cơ thể bị thiếu máu.
Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC)
Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu ( hay MCHC) là chỉ số thể hiện nồng độ trung bình của huyết sắc tố được tính trong một đơn vị thể tích máu. Giá trị MCHC bình thường ở trong khoảng từ 32% đến 36%.
Khi chỉ số này lớn hơn 36%, đó là dấu hiệu cho thấy cơ thể có thể thiếu máu tăng sắc hồng cầu bình thường, do chứng hồng cầu hình tròn di truyền nặng hoặc do xuất hiện các yếu tố ngưng kết lạnh.
Khi chỉ số này nhỏ hơn 32%, có thể cơ thể bạn đã bị thiếu máu.
Bệnh viện Hữu Nghị Lạc Việt sử dụng hệ thống xét nghiệm chuẩn quốc tế do hãng Roche – Thụy Sĩ cung cấp với độ chính xác cao và thời gian trả kết quả nhanh, mọi chi tiết xin liên hệ HOTLINE: 1900 1269
Cách Đọc Các Chỉ Số Hay Gặp Nhất Trong Kết Quả Xét Nghiệm Máu
Xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu là một trong các xét nghiệm thường quy được thực hiện khi khám sức khỏe, khám bệnh, cấp cứu và theo dõi quá trình điều trị của người bệnh. Tuy nhiên, vì lý do này khác, nhiều bác sĩ đã không diễn giải cho bạn cặn kẽ.
Chỉ số hồng cầu1. RBC (Red Blood Cell – Số lượng hồng cầu trong một thể tích máu):
– Giá trị bình thường: 4.2-5.9 x 1012 tế bào/l
– Tăng: cô đặc máu (mất nước, nôn nhiều, đi ngoài…), bệnh đa hồng cầu nguyên phát, thiếu oxy kéo dài …
– Giảm: thiếu máu, mất máu, suy tuỷ, thấp khớp cấp, người cao tuổi, mang thai…
2. HBG (Hemoglobin – Lượng huyết sắc tố trong một thể tích máu):
Huyết sắc tố là một loại phân tử protein của hồng cầu có vai trò vận chuyển, trao đổi O2 và CO2 từ phổi đến các cơ quan. Huyết sắc tố đồng thời là chất tạo màu đỏ cho hồng cầu.
Giá trị bình thường: Nữ: 12-16 g/dl; Nam: 13-18 g/dl (ở người trưởng thành) tương đương với số lượng hồng cầu tính theo đơn vị quốc tế là 120-180 g/l
Tăng: bệnh tim, bệnh phổi, cô đặc máu, thiếu oxy mạn tính…
Giảm: thiếu máu, chảy máu và các phản ứng gây tan máu…
3. HCT (Hematocrit – Tỷ lệ thể tích hồng cầu/ thể tích máu toàn bộ):
Chỉ tiêu này có giá trị trong việc đánh giá và theo dõi các tình trạng mất máu cấp
Giá trị bình thường: 0.377-0.537 L/L
Tăng: dị ứng, bệnh đa hồng cầu, hút thuốc lá, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh mạch vành, ở trên núi cao, cô đặc máu, chứng giảm lưu lượng máu…
Giảm: mất máu, thiếu máu, thai nghén…
4. WBC (White Blood Cell – Số lượng bạch cầu trong một thể tích máu):
Giá trị bình thường: 4.3-10.8 x 109tế bào/l
Tăng: viên nhiễm, mất máu nhiều, sau ăn no, sau hoạt động, bệnh máu ác tính, các bệnh bạch cầu…
Giảm: thiếu hụt vitamin B12 hoặc folate, nhiễm khuẩn, do thuốc, sốt rét, thương hàn, nhiễm virus (sốt xuất huyết), thiếu máu do giảm sinh tủy, dị ứng, nhiễm khuẩn gram âm nặng…
Chỉ số bạch cầu1. NEUT (Neutrophil – Bạch cầu trung tính):
Là những tế bào trưởng thành ở trong máu ngoại vi và có một chức năng quan trọng là thực bào, chúng sẽ tấn công và phá hủy các loại vi khuẩn, virus ngay trong máu ngoại vi khi các sinh vật này vừa xâm nhập cơ thể
Giá trị bình thường: 37-80% (2.0 – 6.9 G/L)
Tăng: sau bữa ăn, sau vận động nặng (tăng ít và tạm thời), nhiễm trùng cấp tính (viêm phổi, viêm ruột thừa, viêm túi mật, áp se…), stress, ung thư, nhồi máu cơ tim, nhồi máu phổi cấp, sau phẫu thuật lớn có mất nhiều máu, sau điều trị Corticoid…
Giảm: nhiễm virus, nhiễm trùng, nhiễm độc nặng, bệnh nhân suy kiệt, nhiễm độc kim loại nặng, sốt rét, giảm sản hoặc suy tủy, các thuốc ức chế miễn dịch, xạ trị…
2. LYM (Lymphocyte – Bạch cầu Lymphô):
Đây là những tế bào có khả năng miễn dịch của cơ thể
Giá trị bình thường: 10- 50% (0.6 – 3.4 G/L)
Tăng: nhiễm khuẩn mạn, lao, nhiễm một số virus khác, viêm loét đại tràng, bệnh bạch cầu dòng lympho mạn, bệnh Hodgkin’s, suy thượng thận, xuất huyết do giảm tiểu cầu tự phát.
Giảm: một số bệnh nhiễm trùng cấp tính, sử dụng glucocorticoid, nhiễm khuẩn cấp, các bệnh tự miễn, các ung thư, tăng chức năng vỏ thượng thận…
3. MONO (Monocyte – Bạch cầu Mono)
Là dạng chưa trưởng thành của đại thực bào trong máu vì vậy chưa có khả năng thực bào. Đại thực bào là những tế bào có vai trò bảo vệ bằng cách thực bào, khả năng này của nó mạnh hơn của bạch cầu đa nhân trung tính. Chúng sẽ phân bố đến các mô của cơ thể, tồn tại tại đó hàng tháng, hàng năm cho đến khi được huy động đi làm các chức năng bảo vệ
Giá trị bình thường: 0-12% (0 -0.9 G/L)
Tăng: nhiễm virus, nhiễm ký sinh trùng, nhiễm khuẩn, các ung thư, viêm ruột, bệnh bạch cầu dòng mono, u lympho, u tủy…
Giảm: thiếu máu do suy tủy, các ung thư, sử dụng corticoid
4. EOS (Eosinophil – Bạch cầu múi ưa axit)
Bạch cầu đa nhân ái toan, khả năng thực bào của loại này yếu, nên không đóng vai trò quan trọng trong các bệnh nhiễm khuẩn thông thường
Giá trị bình thường: 0- 7% (0- 0.7 G/L).
Tăng: nhiễm ký sinh trùng, dị ứng, một số bệnh máu…
Giảm: nhiễm khuẩn cấp tính, quá trình sinh mủ cấp tính, tình trạng sốc, điều trị corticoid, bệnh Cushing…
5. BASO (Basophil – Bạch cầu múi ưa kiềm)
Bạch cầu đa nhân ái kiềm, đóng vai trò quan trọng trong một số phản ứng dị ứng
Giá trị bình thường: 0 – 2.5% ( 0 – 0.2G/L)
Tăng: một số trường hợp dị ứng, bệnh bạch cầu, nhiễm độc, hội chứng tăng sinh tủy, bệnh bạch cầu kinh dòng hạt.
Giảm: nhiễm khuẩn cấp, các phản ứng miễn dịch, sử dụng các thuốc corticoid…
Chỉ số tiểu cầu PLT (Platelet Count – Số lượng tiểu cầu trong một thể tích máu)
Tiểu cầu không phải là một tế bào hoàn chỉnh, mà là những mảnh vỡ của các tế bào chất (một thành phần của tế bào không chứa nhân của tế bào) được sinh ra từ những tế bào mẫu tiểu cầu trong tủy xương. Tiểu cầu đóng vai trò sống còn trong quá trình đông máu, có tuổi thọ trung bình 8-12 ngày, đổi mới sau 4 ngày.
Giá trị bình thường: 150-400G/L.
Số lượng tiểu cầu quá thấp có thể gây ra chảy máu. Còn số lượng tiểu cầu quá cao sẽ hình thành cục máu đông, làm cản trở mạch máu có thể gây nên đột quỵ, nhồi máu cơ tim, nghẽn mạch phổi, tắc nghẽn mạch máu…
Tăng: Các nguyên nhân tăng tiểu cầu phản ứng (chảy máu cấp, dị ứng, nhiễm khuẩn, ung thư, sau cắt lách…), rối loạn tăng sinh tuỷ xương, các bệnh viêm…
Giảm: đông máu trong lòng mạch rải rác, ban xuất huyết sau truyền máu, giảm tiểu cầu do miễn dịch đồng loại ở trẻ sơ sinh, các chất hoá trị liệu, phì đại lách,…
***
?⚕️??⚕️ Đường Huyết Trong Xét Nghiệm Máu Chung: Các Chỉ Số Cho Bệnh Tiểu Đường Và Người Khỏe Mạnh
Một trong các xét nghiệm cơ bản cần thiết để xác định chẩn đoán chính xác là xét nghiệm glucose trong máu của bệnh nhân.
Như bạn biết, một xét nghiệm máu chung cho đường được đưa ra trong trường hợp bệnh tiểu đường nghi ngờ, cũng như một số bệnh nội tiết khác.
Ai và tại sao tôi nên dùng nó?
Thông thường, các nghiên cứu như vậy được tiến hành theo hướng của một bác sĩ – nhà trị liệu hoặc nội tiết, mà một người sau khi xuất hiện các dấu hiệu đáng kể của bệnh. Tuy nhiên, mỗi người cần phải kiểm soát mức độ glucose.
Phân tích này đặc biệt cần thiết cho những người ở các nhóm nguy cơ khác nhau cho bệnh tiểu đường. Theo truyền thống, các chuyên gia xác định ba nhóm nguy cơ chính cho bệnh nội tiết này.
Phân tích phải được gửi:
những người mắc bệnh tiểu đường trong gia đình;
những người thừa cân;
bị tăng huyết áp.
Kiểm soát chặt chẽ là cần thiết để ngăn chặn sự phát triển của bệnh. Xét cho cùng, bệnh tiểu đường thường không xuất hiện đột ngột.
Thông thường, bệnh được bắt đầu bởi một thời gian đủ dài, khi kháng insulin tăng chậm, kèm theo sự gia tăng glucose trong máu. Do đó, hiến máu cho bệnh nhân có nguy cơ chỉ là nửa năm.
Những người mắc bệnh tiểu đường được chẩn đoán cần thường xuyên tiến hành phân tích toàn diện về thành phần máu để kiểm soát tốt hơn tình trạng chung của cơ thể và quá trình bệnh.
Xét nghiệm lượng đường trong máu có đủ không?
Người ta tin rằng một xét nghiệm máu thông thường thường được đưa ra trong quá trình kiểm tra định kỳ có thể xác định, đặc biệt là đái tháo đường.
Điều gì sau đó nó là cần thiết để bàn giao trong huyết tương bổ sung về định nghĩa của một glucose?
Thực tế là tổng số xét nghiệm máu không tiết lộ hàm lượng glucose của bệnh nhân. Đối với một đánh giá đầy đủ của tham số này, một phân tích chuyên ngành là cần thiết, mẫu được bổ sung thêm.
Tuy nhiên, bác sĩ có thể nghi ngờ đái tháo đường bằng xét nghiệm máu tổng quát. Thực tế là một mức độ cao của glucose gây ra một sự thay đổi trong tỷ lệ phần trăm của các tế bào máu đỏ trong huyết tương. Nếu nội dung của chúng vượt quá tiêu chuẩn – tình trạng này có thể do tăng đường huyết.
Nhưng việc sinh hóa máu có thể tiết lộ một cách đáng tin cậy căn bệnh này, vì nó đưa ra một ý tưởng về bản chất của các quá trình trao đổi chất diễn ra trong cơ thể. Tuy nhiên, với sự nghi ngờ của bệnh tiểu đường, việc phân tích glucose cần được thực hiện trong mọi trường hợp.
Chuẩn bị cho nghiên cứu
Để chứng minh sự phân tích càng đúng càng tốt, cần phải tuân theo các quy tắc nhất định để hiến máu. Nếu không, mẫu máu sẽ phải được thực hiện lại.
Lấy mẫu máu nên được thực hiện sớm vào buổi sáng, trước bữa ăn đầu tiên.
Đối với độ tinh khiết của kết quả, tốt hơn là không ăn thực phẩm sau sáu ngày trước khi làm xét nghiệm. Trong một số nguồn, người ta có thể đáp ứng các khuyến cáo không nên uống nước trước khi phân tích, bao gồm cả nước khoáng, và thậm chí nhiều hơn như vậy – trà.
Một ngày trước khi thử nghiệm, đáng chú ý là việc tiêu thụ các sản phẩm bánh kẹo và bột mì. Đừng căng thẳng cơ thể, lo lắng, làm việc chăm chỉ.
Ngay trước khi phân tích bạn cần phải bình tĩnh, dành 10-20 phút nghỉ ngơi, không có nhiều hoạt động thể chất. Nếu bạn phải bắt kịp với xe buýt trước khi phân tích hoặc, ví dụ, leo lên một cầu thang dốc trong một thời gian dài, tốt hơn là ngồi lặng lẽ trong khoảng nửa giờ.
Người hút thuốc nên từ bỏ nghiện của họ ít nhất 12-18 giờ trước khi lấy máu.
Đặc biệt bóp méo các chỉ số hút vào buổi sáng trước khi phân phối thuốc lá. Một quy tắc mạnh khác là không có cồn ít nhất 48 giờ trước khi thử nghiệm.
Sau khi tất cả, ngay cả một lượng nhỏ rượu có thể thay đổi đáng kể nồng độ glucose trong máu – cơ thể phân hủy rượu ethyl thành đường đơn. Tốt nhất là loại bỏ hoàn toàn rượu trong ba ngày trước khi thử nghiệm.
Thông thường, những bệnh nhân trải qua các xét nghiệm đường, đặc biệt là những người lớn tuổi, bị các bệnh mãn tính khác nhau và bị buộc sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau thường xuyên. Nó cũng được khuyến khích để tạm thời từ chối chúng, nếu có thể, 24 giờ trước khi thử nghiệm.
Đừng đi phân tích cảm lạnh hoặc thậm chí nhiều hơn, ARI. Đầu tiên, dữ liệu sẽ bị bóp méo vì việc sử dụng các loại thuốc được sử dụng cho cảm lạnh.
Thứ hai, các quá trình xảy ra trong sinh vật vật lộn với nhiễm trùng cũng có thể làm thay đổi hàm lượng glucose trong máu.
Cuối cùng, trước khi đi đến phòng thí nghiệm, bạn không nên tắm trong phòng xông hơi khô, phòng xông hơi khô hoặc tắm nước quá nóng. Massage và các loại liệu pháp tiếp xúc khác nhau có thể làm cho việc phân tích không chính xác.
Giải mã các kết quả xét nghiệm máu tổng quát: các chỉ tiêu
Tiểu đường lo sợ phương thuốc này, như lửa!
Bạn chỉ cần áp dụng …
Đường giảm
Tìm hiểu thêm
pozner.ru
Cần lưu ý rằng xét nghiệm máu tổng quát đưa ra ý tưởng về tám đặc điểm quan trọng của thành phần của nó.
Xác định các thông số của hemoglobin, số lượng các tế bào máu đỏ và trắng chứa trong một thể tích nhất định, hematocrit, số lượng tiểu cầu. Ngoài ra kết quả của công thức bạch cầu, ESR, và khối lượng hồng cầu được đưa ra.
Các chỉ tiêu của các chỉ số này khác nhau ở người lớn và trẻ em, cũng như ở nam giới và phụ nữ, vì sự khác biệt trong nền nội tiết tố và các đặc điểm của chức năng của cơ thể.
Vì vậy, đối với nam giới, hemoglobin nên từ 130 đến 170 gram mỗi lít máu. Ở phụ nữ, các chỉ số thấp hơn – 120-150 g / l. Các chỉ số hematocrit ở nam giới nên trong khoảng 42-50%, và ở phụ nữ – 38-47. Chỉ tiêu của bạch cầu là như nhau cho cả hai giới – 4.0-9.0 / l.
Nếu chúng ta nói về các chỉ tiêu đường, thì đối với những người khỏe mạnh, các chỉ số đều giống nhau đối với cả nam và nữ. Thay đổi tuổi tác cũng không ảnh hưởng đến các chỉ số đường trong một người không dễ bị bệnh tiểu đường.
Ngưỡng tối thiểu bình thường cho glucose là chỉ số 4 mmol mỗi lít máu.
Nếu chỉ số được hạ xuống, bệnh nhân có hạ đường huyết – một tình trạng bệnh lý có thể được gây ra bởi một số yếu tố – từ suy dinh dưỡng đến công việc không chính xác của hệ thống nội tiết.Mức đường trên 5,9 mmol cho thấy bệnh nhân phát triển một tình trạng có điều kiện được gọi là tiền tiểu đường.
Bản thân bệnh vẫn chưa có, tuy nhiên, mức độ kháng insulin hoặc mức độ hormone của tuyến tụy giảm đáng kể. Quy tắc này không áp dụng cho phụ nữ có thai – họ có con số bình thường lên đến 6,3 mmol. Nếu mức độ được nâng lên 6,6 – điều này đã được coi là một bệnh lý và đòi hỏi sự chú ý của một chuyên gia.
Nó nên được lưu ý rằng ăn uống, thậm chí không tiêu thụ ngọt, vẫn làm tăng mức độ glucose. Trong vòng một giờ sau khi ăn, glucose có thể nhảy tới 10 mmol.
Đây không phải là một bệnh lý, nếu theo thời gian chỉ số giảm. Vì vậy, 2 giờ sau bữa ăn, nó giữ ở mức 8-6 mmol, và sau đó nó hoàn toàn bình thường hóa.
Các chỉ số về đường – các dữ liệu quan trọng nhất, cho phép đánh giá hiệu quả của việc điều trị bệnh tiểu đường liên tục. Thông thường, ba mẫu máu được sử dụng một máy đo đường huyết từ ngón tay được so sánh vào buổi sáng, vào buổi chiều và buổi tối.
Đồng thời, các chỉ số “tốt” cho bệnh nhân tiểu đường khác với những chỉ số được chấp nhận cho những người khỏe mạnh. Vì vậy, tỷ lệ buổi sáng của 4,5-6 đơn vị trước bữa ăn sáng, lên đến 8 – sau bữa ăn hàng ngày, và lên đến bảy giờ trước khi đi ngủ cho thấy rằng liệu pháp cũng được đền bù cho căn bệnh này.
Nếu tỷ lệ này cao hơn 5-10% so với mức được chỉ định, chúng chỉ ra mức bồi thường trung bình của bệnh. Đây là lý do để sửa đổi những khoảnh khắc nhất định của liệu pháp của bệnh nhân.
Vượt quá các chỉ số trên 10% cho thấy một dạng bệnh không được bù trừ.
Điều này có nghĩa là bệnh nhân không nhận được điều trị cần thiết nào cả, hoặc vì lý do nào đó bệnh nhân hoàn toàn không hiệu quả.
Phương pháp chẩn đoán bổ sung
Ngoài ra, một số xét nghiệm khác được sử dụng để giúp thiết lập các loại bệnh, cũng như các tính năng của nó.
Các mẫu cho dung nạp glucose có thể xác định sự phát triển của tiền tiểu đường ở bệnh nhân có mức độ chắc chắn cao, ngay cả khi lượng glucose trong máu cho thấy bình thường trong suốt quá trình nghiên cứu tiêu chuẩn.
Kiểm soát chất lượng điều trị nhận được bởi một bệnh nhân tiểu đường được giúp bằng việc xác định mức độ HbA1c.
Một phương pháp cũng được sử dụng để phát hiện hàm lượng acetone trong nước tiểu của bệnh nhân. Với sự giúp đỡ của nghiên cứu này, người ta có thể tìm hiểu về sự phát triển của nhiễm ceton acid, một biến chứng đặc trưng và nguy hiểm của bệnh tiểu đường.
Một phương pháp bổ sung khác là xác định sự hiện diện của glucose trong nước tiểu. Người ta biết rằng ở một người khỏe mạnh, không giống như bệnh tiểu đường, nồng độ của nó quá thấp để thâm nhập vào hàng rào thận.
Nhằm mục đích chẩn đoán thêm về loại bệnh, xét nghiệm máu trên phần insulin được sử dụng. Xét cho cùng, nếu tuyến tụy không tạo ra đủ lượng hoóc-môn này, thì các xét nghiệm sẽ cho thấy một lượng nhỏ các phân số của nó trong máu.
Nếu glucose trong huyết tương tăng lên thì sao?
Trước hết, bạn nên liên hệ với một chuyên gia. Nhà nội tiết sẽ chỉ định một số xét nghiệm bổ sung và, dựa trên kết quả của họ, sẽ phát triển một hệ thống điều trị.
Điều trị sẽ giúp bình thường hóa đường và tránh bệnh ở tiền đái tháo đường.
Ngay cả khi bệnh tiểu đường được chẩn đoán, các phương pháp bồi thường hiện đại cho bệnh không chỉ cho phép bảo tồn tính mạng và sức khỏe của bệnh nhân trong nhiều năm. Bệnh tiểu đường trong thế giới hiện đại có thể dẫn đến một cuộc sống năng động, làm việc có chất lượng và tạo ra sự nghiệp.
Không chờ đợi các khuyến cáo của bác sĩ, nó là cần thiết để đặt theo thứ tự chế độ ăn uống, bỏ các loại thực phẩm giàu carbohydrates, cũng như loại bỏ các thói quen xấu.
Bình thường hóa trọng lượng trong một số trường hợp có thể dẫn đến ổn định mức độ glucose.
Xét nghiệm máu tổng quát được thực hiện như thế nào? Trả lời trong video:
Vì vậy, chẩn đoán chính xác và kịp thời trong trường hợp đái tháo đường là một điều kiện để duy trì sức khỏe của bệnh nhân và một cuộc sống bình thường, hiệu quả.
Xem video: BỆNH NHIỄM: VIÊM GAN B, NGUYÊN NHÂN, QUÝ VỊ ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN B
Hướng Dẫn Cách Đọc Kết Quả Xét Nghiệm Máu
3 siêu vi khuẩn kháng kháng sinh gần như không còn loại thuốc nào để điều trị
Sự thật bất ngờ về ngón chân trỏ dài hơn ngón chân cái
I. Cách thành phần của công thức máu
1. WBC (White Blood Cell – Số lượng bạch cầu trong một thể tích máu)
Giá trị thường nằm trong khoảng từ 4.300 đến 10.800 tế bào/mm3, tương đương với số lượng bạch cầu tính theo đơn vị quốc tế là 4.3 đến 10.8 x 109 tế bào/l.
Tăng trong viêm nhiễm, bệnh máu ác tính, các bệnh bạch cầu… giảm trong thiếu máu do bất sản, thiếu hụt vitamin B12 hoặc folate, nhiễm khuẩn…
Giá trị thường nằm trong khoảng từ 4.300 đến 10.800 tế bào/mm3.
2. RBC (Red Blood Cell – Số lượng hồng cầu (hoặc erythrocyte count) trong một thể tích máu)
Giá trị thường nằm trong khoảng từ 4.2 đến 5.9 triệu tế bào/cm3, tương đương với số lượng hồng cầu tính theo đơn vị quốc tế là 4.2 đến 5.9 x 1012 tế bào/l.
Tăng trong mất nước, chứng tăng hồng cầu; giảm trong thiếu máu.
3. HB hay HBG (Hemoglobin – Lượng huyết sắc tố trong một thể tích máu)
Hemoglobin là một loại phân tử protein có trong hồng cầu chuyên chở oxy và tạo màu đỏ cho hồng cầu.
Giá trị thay đổi tùy giới tính, thường nằm trong khoảng từ 13 đến 18 g/dl đối với nam và 12 đến 16 g/dl đối với nữ (tính theo đơn vị quốc tế tương ứng là 8.1 – 11.2 millimole/l và 7.4 – 9.9 millimole/l).
Tăng trong mất nước, bệnh tim và bệnh phổi; giảm trong thiếu máu, chảy máu và các phản ứng gây tan máu.
4. HCT (Hematocrit – Tỷ lệ thể tích hồng cầu trên thể tích máu toàn bộ)
Giá trị thay đổi tùy giới tính, thường nằm trong khoảng từ 45 đến 52% đối với nam và 37 đến 48% đối với nữ.
Tăng trong các rối loạn dị ứng, chứng tăng hồng cầu, hút thuốc lá, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh mạch vành, ở trên núi cao, mất nước, chứng giảm lưu lượng máu; giảm trong mất máu, thiếu máu, thai nghén.
5. MCV (Mean corpuscular volume – Thể tích trung bình của một hồng cầu)
Giá trị này được lấy từ HCT và số lượng hồng cầu. Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 80 đến 100 femtoliter (1 femtoliter = 1/1triệu lít).
Tăng trong thiếu hụt vitamin B12, thiếu acid folic, bệnh gan, nghiện rượu, chứng tăng hồng cầu, suy tuyến giáp, bất sản tuỷ xương, xơ hoá tuỷ xương; giảm trong thiếu hụt sắt, hội chứng thalassemia và các bệnh hemoglobin khác, thiếu máu trong các bệnh mạn tính, thiếu máu nguyên hồng cầu, suy thận mạn tính, nhiễm độc chì.
6. MCH (Mean Corpuscular Hemoglobin – Số lượng trung bình của huyết sắc tố có trong một hồng cầu)
Giá trị này được tính bằng cách đo hemoglobin và số lượng hồng cầu. Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 27 đến 32 picogram.
Tăng trong thiếu máu tăng sắc hồng cầu bình thường, chứng hồng cầu hình tròn di truyền nặng, sự có mặt của các yếu tố ngưng kết lạnh; giảm trong bắt đầu thiếu máu thiếu sắt, thiếu máu nói chung, thiếu máu đang tái tạo.
7. MCHC (Mean Corpuscular Hemoglobin Concentration – Nồng độ trung bình của huyết sắc tố trong một thể tích máu)
Giá trị này được tính bằng cách đo giá trị của hemoglobin và hematocrit. Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 32 đến 36%.Trong thiếu máu tăng sắc: hồng cầu bình thường, chứng hồng cầu hình tròn di truyền nặng, sự có mặt của các yếu tố ngưng kết lạnh.
Trong thiếu máu đang tái tạo: có thể bình thường hoặc giảm do giảm folate hoặc vitamin B12, xơ gan, nghiện rượu.
8. PLT (Platelet Count – Số lượng tiểu cầu trong một thể tích máu)
Tiểu cầu không phải là một tế bào hoàn chỉnh, mà là những mảnh vỡ của các tế bào chất (một thành phần của tế bào không chứa nhân hoặc thân của tế bào) từ những tế bào được tìm thấy trong tủy xương.
Tiểu cầu đóng vai trò sống còn trong quá trình đông máu, có tuổi thọ trung bình là 5 đến 9 ngày.
Giá trị thường nằm trong khoảng từ 150.000 đến 400.000/cm3 (tương đương 150 – 400 x 109/l).
Số lượng tiểu cầu quá thấp sẽ gây mất máu. Số lượng tiểu cầu quá cao sẽ hình thành cục máu đông, làm cản trở mạch máu, dẫn đến đột quỵ, nhồi máu cơ tim, nghẽn mạch phổi, tắc nghẽn mạch máu…
Tăng trong những rối loạn tăng sinh tuỷ xương, bệnh bạch tăng tiểu cầu vô căn, xơ hoá tuỷ xương, sau chảy máu, sau phẫu thuật cắt bỏ lách… dẫn đến các bệnh viêm.
Giảm trong ức chế hoặc thay thế tuỷ xương, các chất hoá trị liệu, phì đại lách, đông máu trong lòng mạch rải rác, các kháng thể tiểu cầu, ban xuất huyết sau truyền máu, giảm tiểu cầu do miễn dịch đồng loại ở trẻ sơ sinh…
Lymphocyte giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng.
9. LYM (Lymphocyte – Bạch cầu Lymphô)
Lymphocyte giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng. Có rất nhiều nguyên nhân làm giảm lymphocytes như: giảm miễn nhiễm, nhiễm HIV/AIDS, Lao, sốt rét, ung thư máu, ung thư hạch…
Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 20 đến 25%.
10. MXD (Mixed Cell Count – tỷ lệ pha trộn tế bào trong máu)
Mỗi loại tế bào có một lượng % nhất định trong máu. MXD thay đổi tùy vào sự tăng hoặc giảm tỷ lệ của từng loại tế bào.
11. NEUT (Neutrophil – Tỷ lệ bạch cầu trung tính)
Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 60 đến 66%. Tỷ lệ tăng cao cho thấy nhiễm trùng máu.
Tăng trong nhiễm khuẩn cấp, nhồi máu cơ tim cấp, stress, ung thư, bệnh bạch cầu dòng tuỷ; giảm trong nhiễm virus, thiếu máu bất sản, các thuốc ức chế miễn dịch, xạ trị…
12. RDW (Red Cell Distribution Width – Độ phân bố hồng cầu)
Giá trị này càng cao nghĩa là độ phân bố của hồng cầu thay đổi càng nhiều. Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 11 đến 15%.
RDW bình thường và:
MCV tăng, gặp trong: thiếu máu bất sản, trước bệnh bạch cầu.
MCV bình thường, gặp trong: thiếu máu trong các bệnh mạn tính, mất máu hoặc tan máu cấp tính, bệnh enzym hoặc bệnh hemoglobin không thiếu máu.
MCV giảm: thiếu máu trong các bệnh mạn tính, bệnh thalassemia dị hợp tử
RDW tăng và:
MCV tăng: thiếu hụt vitamin B12, thiếu hụt folate, thiếu máu tan huyết do miễn dịch, ngưng kết lạnh, bệnh bạch cầu lympho mạn.
MCV bình thường: thiếu sắt giai đoạn sớm, thiếu hụt vitamin B12 giai đoạn sớm, thiếu hụt folate giai đoạn sớm, thiếu máu do bệnh globin.
MCV giảm: thiếu sắt, sự phân mảnh hồng cầu, bệnh HbH, thalassemia.
13. PDW (Platelet Disrabution Width – Độ phân bố tiểu cầu)
Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 6 đến18 %.
Tăng trong ung thư phổi, bệnh hồng cầu liềm, nhiễm khuẩn huyết gram dương, gram âm; giảm trong nghiện rượu.
14. MPV (Mean Platelet Volume – Thể tích trung bình của tiểu cầu trong một thể tích máu)
Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 6,5 đến 11fL.
Tăng trong bệnh tim mạch, tiểu đường, hút thuốc lá, stress, nhiễm độc do tuyến giáp…; giảm trong thiếu máu do bất sản, thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ, hoá trị liệu ung thư, bạch cầu cấp…
15. P- LCR (Platelet Larger Cell Ratio – Tỷ lệ tiểu cầu có kích thước lớn)
Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 150 đến 500 G/l (G/l = 109/l).
II. Cách đọc kết quả sinh hóa máu
GLUCOSE là đường trong máu. Giới hạn bình thường từ 4,1-6,1 mnol/l.
1. GLU (GLUCOSE) – Đường trong máu
Giới hạn bình thường từ 4,1-6,1 mnol/l. Nếu vượt quá giới hạn cho phép thì tăng hoặc giảm đường máu. Tăng trên giới hạn là người có nguy cơ cao về mắc bệnh tiểu đường.
2. SGOT & SGPT: Nhóm men gan
Giới hạn bình thường từ 9,0-48,0 với SGOT và 5,0-49,0 với SGPT. Nếu vượt quá giới hạn này chức năng thải độc của tế bào gan suy giảm. Nên hạn chế ăn các chất thức ăn, nước uống làm cho gan khó hấp thu và ảnh hưởng tới chức năng gan như: Các chất mỡ béo động vật và rượu bia và các nước uống có gas.
3. Nhóm MỠ MÁU
Bao gồm CHOLESTEROL, TRYGLYCERID, HDL-CHOLES, LDL-CHLES
Giới hạn bình thường của các yếu tố nhóm này như sau:
Giới hạn bình thường từ 3,4-5,4 mmol/l với CHOLESTEROL.
Giới hạn bình thường từ 0,4-2,3 mmol/l với TRYGLYCERID.
Giới hạn bình thường từ 0,9-2,1 mmol/l với HDL-Choles.
Giới hạn bình thường từ 0,0-2,9 mmol/l với LDL-Choles.
4. GGT: Gama globutamin, là một yếu tố miễn dịch cho tế bào gan
5. URE (Ure máu)
Là sản phẩm thoái hóa quan trọng nhất của protein được thải qua thận.
Giới hạn bình thường: 2.5 – 7.5 mmol/l.
6. BUN (Blood Urea Nitrogen)
BUN = ure (mg) x 28/60; đổi đơn vị: mmol/l x 6 = mg/dl.
Tăng trong: bệnh thận, ăn nhiều đạm, sốt, nhiễm trùng, tắc nghẽn đường tiểu…
Giảm trong: ăn ít đạm, bệnh gan nặng, suy kiệt…
Tăng trong: suy thận, suy tim, ăn nhiều đạm, sốt, nhiễm trùng…
Giảm trong: ăn ít đạm, bệnh gan nặng…
7. CRE (Creatinin)
Giới hạn bình thường: nam 62 – 120, nữ 53 – 100 (đơn vị: umol/l).
Tăng trong: bệnh thận, suy tim, tiểu đường, tăng huyết áp vô căn, NMCT cấp…
Giảm trong: có thai, sản giật…
8. URIC (Acid Uric = urat)
URIC là sản phẩm chuyển hóa của base purin (Adenin, Guanin) của ADN & ARN, thải chủ yếu qua nước tiểu.
Giới hạn bình thường: nam 180 – 420, nữ 150 – 360 (đơn vị: umol/l).
Tăng trong:
Thứ phát: do sản xuất tăng (u tủy, bệnh vảy nến..), do bài xuất giảm (suy thận, dùng thuốc, xơ vữa động mạch…).
Bệnh Gout (thống phong): tăng acid uric/ máu có thể kèm nốt tophi ở khớp & sỏi urat ở thận.
Giảm trong: bệnh Wilson, thương tổn tế bào gan…
9. Kết quả miễn dịch
Anti-HBs: Kháng thể chống vi rút viêm gan siêu vi B trong máu (ÂM TÍNH < = 12 mUI/ml).
HbsAg: Vi rút viêm gan siêu vi B trong máu (ÂM TÍNH).
Bạn đang đọc nội dung bài viết Giải Mã 18 Chỉ Số Trong Xét Nghiệm Công Thức Máu (P2) trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!