Cập nhật nội dung chi tiết về Mốc Son Chói Lọi Trong Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta trải qua 21 năm, từ năm 1954, kết thúc thắng lợi năm 1975, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều mất mất mát hy sinh, thách thức và ác liệt.
Vào cuối năm 1974 đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi nhanh có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế – Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông. Vào lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Chiến thắng mùa xuân 1975 có được do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bac Hồ, hy sinh quên mình vì độc lập tự do cho Tổ quốc. Đặc biệt, sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đã tạo nên sức mạnh to lớn. Không những thế, chúng ta đã kết hợp súc mạnh dân tộc và sức nạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Kế thừa tinh thần trong chiến đấu, chúng ta đang từng bước khẳng định mình trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam ngày càng có uy tín trên chính trường Quốc tế, là nơi tin cậy để đăng cai tổ chức các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ quốc tế và khu vực. Về kinh tế, trong khi nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam vẫn chứng tỏ sức hút của thị trường mới hội nhập và tiềm năng lớn lao của một nền kinh tế trẻ năng động với nhiều thành tựu và kỷ lục mới. Năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam đạt và vượt toàn bộ các chỉ tiêu chủ yếu Quốc hội giao. Việt Nam cũng là nước chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu vô cùng tích cực và hiệu quả. Với dịch covid 19, cả thế giới điêu đứng vì những thiệt hại trên hầu hết các lĩnh vực, Việt Nam cơ bản vẫn kiểm soát mọi tình huống với phương châm “Không ai bị bỏ lại phía sau”. Việt Nam một lần nữa được dư luận Quốc tế đánh giá cao trong công tác phòng chống dịch civid 19 hiện nay.
Với những thành quả trong lịch sử và hiện nay, chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, vào tinh thần yêu nước quật cường, bất khuất và trí thông minh, sáng tạo, doàn kết của dân tộc ta, của quân đội ta, nhân dân ta.
Các thế hệ người dân Việt Nam chúng ta hôm nay tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Nguồn: chúng tôi
Những Tuyệt Phẩm Âm Nhạc Gắn Liền Với Mốc Son Lịch Sử Dân Tộc
Ca khúc 19 tháng 8 nổi tiếng gắn liền với mốc son lịch sử của dân tộc- Cách mạng Tháng 8 không chỉ được cố nhạc sĩ Xuân Oanh sáng tác đúng ngày 19/8/1945 mà còn có hoàn cảnh ra đời rất độc đáo.
Ca khúc này được ông sáng tác trên đường đi, sáng tác bằng miệng, chỉ trong vòng 3 giờ đồng hồ và không phải sửa lại. “Tôi khi đó đang là một chàng thanh niên 23 tuổi, sớm giác ngộ cách mạng, được nhà văn Nguyễn Đình Thi và một số đồng chí khác dìu dắt, hướng dẫn tham gia công tác tuyên truyền cách mạng, cụ thể là đi phát hành các Tờ báo Hồn nước, Cờ giải phóng. Tâm trạng của lớp trẻ chúng tôi lúc đó – nhất là những người ham hoạt động – luôn sôi lên bầu máu nóng muốn làm một điều gì đó đóng góp vào công cuộc cách mạng chung. Sáng sớm ngày 19/8, tôi nhập vào đoàn người đi từ Văn Điển lên Nhà hát Lớn Hà Nội. Mọi người hối hả, khẩn trương và vô cùng phấn khích. Là người yêu thích âm nhạc, trước đó đã từng sáng tác, tôi nảy ý định sáng tác một bài hát ngay trên đường đi. Thế là vừa đi, tôi vừa sáng tác. Được câu nào tôi dạy ngay cho những người quanh tôi hát và nhập vào đoàn người hôm ấy. Họ thuộc và hát trôi chảy, tôi lại nghĩ tiếp câu sau cho đến hết bài. Không hiểu sao, tôi cho ra đời bài hát khá dễ dàng, có thể nói là không mất công nghĩ ngợi nhiều. Sáng tác gần như một mạch. Chính cái không khí lịch sử, tình cảm của đồng bào đã giúp tôi sáng tác nhanh như vậy…”, lúc sinh thời nhạc sĩ Xuân Oanh từng kể lại.
Với giai điệu hào hùng nhịp nhịp bước, ca khúc vang lên khiến người nghe không khỏi bồi hồi xúc động xen lẫn niềm tự hào dâng tràn. Mỗi năm, ca khúc bất hủ ấy lại vang lên vào những ngày thu rạng ngời niềm vui kỷ niệm chiến thắng Cách mạng Tháng 8 lịch sử.
Giải phóng Điện Biên
Ca khúc Giải phóng Điện Biên (trong bản chép tay đầu tiên của Đỗ Nhuận là Chiến thắng Điện Biên) suốt 60 năm nay đã trở thành “biểu tượng” bằng giai điệu của chiến thắng Điện Biên lịch sử. Ca khúc này được nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác ngay trong đêm ngày 7/5/1954.
Đội hình vận tải bằng xe thồ phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)
Trong cuốn hồi ký, ông kể buổi chiều ngày 7/5, khi đoàn văn công đang cuốc đất, rải đá làm đường thì bỗng một đồng chí liên lạc từ mặt trận đạp xe qua, reo to: “Mường Thanh địch hàng rồi! Giải phóng Điện Biên rồi!”
Khi đó, người nhạc sĩ gai lên. Tất cả đoàn văn công ngừng tay cuốc, ôm nhau nhảy, không cần đệm nhạc. Đỗ Nhuận thì không ôm ai cả, nhảy một mình, nhảy tít thò lò, và trong đầu phảng phất câu “Giải phóng Điện Biên”…Thế rồi, đêm hôm đó, trong túp lều, bên ánh đèn dầu le lói, tay ông búng chiếc violon, miệng cứ hát lẩm nhẩm, sợ làm ồn anh em mất ngủ. Và ca khúc ra đời với cảm xúc tuôn trào: “Giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về/Giữa mùa hoa nở, miền Tây Bắc tưng bừng vui…”
Nếu như hai ca khúc trước đó, sáng tác trong cùng chiến dịch với Hành quân xa là hành khúc mang âm hưởng dân ca đồng bằng Bắc Bộ, Trên đồi Him Lam với tính chất tưởng niệm, tri ân các chiến sỹ đã hi sinh thì đến Giải phóng Điện Biên bao cảm xúc dồn nén được Đỗ Nhuận kết tụ bằng giai điệu hào sảng, ngợi ca.
“Cha tôi kể lại, hình ảnh đoàn quân ta ngồi trên xe cam- nhông lấy được từ trận chiến với quân Pháp tại chiến dịch Điện Biên trên đường về tiếp quản Thủ đô- tất cả đoàn bộ đội, dân công bừng bừng khí thế hát vang ca khúc Chiến thắng Điện Biên khiến ông… rất sung sướng, rất hạnh phúc”, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân kể lại.
Tiến về Hà Nội
Có thể nói Tiến về Hà Nội của tác giả Văn Cao là ca khúc hay nhất viết về sự kiện Giải phóng Thủ đô. 65 năm trôi qua, những lời ca hào hùng, lãng mạn thể hiện nguyện vọng, khát khao của mọi người dân vẫn được hát vang đầy tự hào trong những dịp lễ lớn.
Nếu ca khúc Mùa Xuân đầu tiên được Văn Cao sáng tác sau ngày giải phóng miền Nam gần một năm thì Tiến về Hà Nội lại được cố nhạc sĩ sáng tác trước khi bộ đội về giải phóng thủ đô (10/10/1954) đến 5 năm.
Ngày Giải phóng Thủ đô 10/10/1954 (Ảnh tư liệu)
“Ca khúc như lời dự báo ngày chiến thắng, bởi ngày quân ta trở về tiếp quản Thủ đô trong rừng hoa, sự chào đón nô nức của người dân không khác gì bức tranh ngôn ngữ mà Văn Cao đã phác họa trong Tiến về Hà Nội. Hình ảnh “Trùng trùng quân đi như sóng/ Lớp lớp đoàn quân tiến về”, rồi “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về…”. Mỗi dịp kỷ niệm ngày Giải phóng Thủ đô, xem lại thước phim cũ hòa trong điệp khúc, giai điệu, lời ca này tôi lại xúc động trào nước mắt. Tôi nhớ cha và luôn tự hào về người cha của mình”, nhà thơ, họa sĩ Văn Thao- con trai trưởng của cố nhạc sĩ tài hoa Văn Cao trải lòng.
Đất nước trọn niềm vui
Ngày 30/ 4/1975, lá cờ giải phóng đã được phất cao trên nóc dinh Độc Lập. Niềm vui thắng lợi tuôn trào tạo dòng cảm xúc mạnh mẽ giúp nhiều nhạc sĩ sáng tác thành công nhiều ca khúc ngay trong những ngày đầu thống nhất đất nước. Từ bài Đất nước trọn niềm vui của Hoàng Hà, Bài ca thống nhất của Võ Văn Di, đến bài Tiếng hát từ thành phố mang tên Người, nhạc Cao Việt Bách, lời thơ Đăng Trung, Mùa xuân trên thành phố Hồ Chi Minh của Xuân Hồng, Tiến về Sài Gòn của Lưu Hữu Phước…
Các chiến sĩ quân giải phóng đang chạy vào Dinh Độc Lập cắm cờ Cách mạng(Ảnh tư liệu)
Đất nước trọn niềm vui được nhạc sĩ Hoàng Hà lấy cảm xúc mạnh mẽ từ chiến công thần kỳ của quân và dân ta. Ông kể rằng, mình sáng tác ca khúc đúng một đêm (26/4/1975) tại căn nhà ở Yên Phụ, gần Hồ Tây, Hà Nội. “Khi ấy, cảm xúc cao trào, bỗng bật ra giọng hò Đồng Tháp của chị văn công giải phóng năm nào cứ vút cao đưa tâm hồn tôi bay lên, say trong không gian của non sông anh hùng ngày hoàn toàn giải phóng!”, ông nói. NSND Trung Kiên chính là ca sĩ đầu tiên thu âm “bài ca khải hoàn của dân tộc” này.
Có điều rất thú vị đó là Hoàng Hà viết ca khúc lịch sử này khi ông chưa đặt chân vào Sài Gòn.
“Mãi đến năm 1977, tôi mới tận mắt trông thấy Sài Gòn. Hồi đó, từ giữa tháng tư năm 1975, không khí Hà Nội quanh tôi rất sôi động.Trong cơ quan Đài tiếng nói Việt Nam, chúng tôi theo dõi tình hình chiến sự từng giờ từng phút, ai cũng náo nức, rạo rực. Đường phố cũng như vậy, tràn ngập một không khí phấn khởi, rộn ràng”, ông kể lại.
Như có Bác trong ngày đại thắng
Đêm ngày 28/4/1975, sau khi nghe bản tin cuối cùng của đài có tin phi công Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sân Nhất, chỉ trong vòng chưa đầy 2 tiếng đồng hồ từ 9 giờ 30 phút tối đến 11 giờ nhạc sĩ Phạm Tuyên đã viết xong bài Như có Bác trong ngày đại thắng.
Mít tinh chào mừng thống nhất đất nước tại quảng trường Ba Đình năm 1975 (Ảnh tư liệu)
Cũng giống như nhạc sĩ Hoàng Hà, Phạm Tuyên chưa từng được đến Sài Gòn cho đến thời điểm ca khúc Như có Bác trong ngày đại thắng ra đời. Nói về ca khúc, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã tâm sự: “Lời bài hát như là tiếng lòng, là ước vọng bao nhiêu lâu mình mong ước, có không biết bao nhiêu người cảm động và khóc khi hát vang khúc ca này. Và cảm giác bài hát như có sẵn rồi, không phải là tôi thì sẽ là một nhạc sĩ khác của dân tộc viết ra nó”
Với giai điệu giản dị, gần gũi, lời ca ngắn gọn, súc tích, ca khúc Như có Bác trong ngày đại thắng (nhân dân quen gọi là ca khúc Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng) được phổ biến một cách rộng rãi ở Việt Nam, được rất nhiều người dân biết đến, yêu thích và hát trong những ngày lễ, kỉ niệm lớn hay trong những dịp đội tuyển Việt Nam giành chiến thắng.
Nguồn: Nguyễn Hằng – Dân Trí
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Thành Lập
Sau Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền. Nhân dân miền Bắc và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ để tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Ở miền Nam, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm chống phá Hiệp nghị, chống tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà. Chúng đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh, thẳng tay tiến hành các chiến dịch đàn áp, khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước và mọi lực lượng đối lập. Chúng âm mưu xây dựng chế độ thống trị bằng bạo lực và máy chém, biến miền Nam Việt Nam thành một xã hội phụ thuộc Mỹ, chia cắt lâu dài nước Việt Nam.
Ngày 20/12/1960, các thành viên của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
tuyên thệ trong Lễ thành lập Mặt trận.
Trước tình hình như vậy ở miền Nam, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị lần thứ 15. Trên cơ sở phân tích tình hình, xác định mâu thuẫn của xã hội Việt Nam và miền Nam Việt Nam từ sau Hiệp nghị Giơnevơ, Hội nghị chủ trương có một mặt trận riêng ở miền Nam, coi đây là một trong những nội dung cơ bản của Nghị quyết 15.
Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được triệu tập, đã hoàn chỉnh những nội dung cơ bản về đường lối và phương pháp cách mạng ở miền Nam. Đại hội chủ trương thành lập Trung ương Cục ở miền Nam để giúp Trung ương Đảng, Bộ Chính trị chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam. Để tập hợp rộng rãi lực lượng cách mạng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, Đại hội III của Đảng cũng chủ trương phải xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất ở miền Nam.
Ngày 20-12-1960, tại vùng giải phóng ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập bao gồm đại biểu các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam, không phân biệt xu hướng chính trị, với Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm:
1. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ.
2. Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ.
3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thực hiện cải thiện dân sinh.
4. Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, giúp người cày có ruộng.
5. Xây dựng nền văn hóa giáo dục dân tộc, dân chủ.
6. Xây dựng một quân đội bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.
7. Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo hộ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào.
8. Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập.
9. Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
10. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới.
Chương trình 10 điểm của Mặt trận đã giải quyết một cách đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng miền Nam. Chính vì vậy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có sức thu hút mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân trong vùng giải phóng và các đô thị lớn.
Ngày 16-2-1962 tại Tân Biên (Tây Ninh), Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ I đã cử ra Ủy ban Trung ương chính thức gồm 52 đại biểu. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các Phó Chủ tịch gồm có: Bác sĩ Phùng Văn Cung; ông Võ Chí Công – đại diện Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam; Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát – Tổng Thư ký Đảng Dân chủ miền Nam; ông Ybih Aleo – người dân tộc Ê đê, Chủ tịch Ủy ban Phong trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên; Đại đức Sơn Vọng – đại biểu đồng bào Khơme yêu nước; ông Trần Nam Trung và Nguyễn Văn Hiếu. Ủy viên Đoàn Chủ tịch gồm có: Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Trần Bửu Kiếm, bà Nguyễn Thị Định, Hòa thượng Thích Thượng Hào, Ngọc đầu sư Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, ông Đặng Trần Thi.
Ngày 11-11-1964, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã họp Đại hội lần thứ 2. Có 150 đại biểu tham dự. Đại hội nhất trí cử ra Ủy ban Trung ương gồm 49 trên 150 đại biểu có mặt. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tiếp tục được cử làm Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Phó chủ tịch: ông Ybih Aleo, ông Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Huỳnh Tấn Phát, Thích Thôm Mê Thê Nhem – dân tộc Khơ me, Trần Nam Trung – đại diện Quân giải phóng Miền Nam. Các ủy viên: Nguyễn Thị Định, Trần Bạch Đằng, Thích Thượng Hào, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Văn Ngợi, Phan Xuân Thái (Phan Văn Đáng), Nguyễn Hữu Thế, Đặng Trần Thi. Ban Thư ký: Huỳnh Tấn Phát (Tổng Thư ký), Lê Văn Huân, Hồ Thu, Ung Ngọc Kỳ, Hồ Xuân Sơn (Phó Tổng Thư ký). Sau ông Nguyễn Văn Hiếu lại tham gia Đoàn chủ tịch.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chọn lá cờ nửa màu xanh, nửa màu đỏ, giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm cờ của Mặt trận và bài ca Giải phóng miền Nam làm bài hát của Mặt trận. Mặt trận có Thông tấn xã giải phóng, có Đài phát thanh giải phóng, có vùng căn cứ ở Bắc Tây Ninh, có đường dây liên lạc đến các nơi bằng vô tuyến điện, đường bộ.
Tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam bên cạnh Ủy ban Trung ương, khắp các huyện, tỉnh đều tổ chức thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng các cấp. Ủy ban Mặt trận địa phương được tổ chức ở bốn cấp: cấp khu, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Đến tháng 10-1962, hầu hết các tỉnh thành đều có Ủy ban Mặt trận. Trong số 41 tỉnh thành từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau thì có 38 tỉnh thành có Ủy ban Mặt trận ra mắt nhân dân. Từ năm 1960 đến 1967, Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng địa phương các cấp thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở cấp mình.
Cùng với việc thành lập Ủy ban Mặt trận ở nhiều địa phương là sự ra đời của các tổ chức thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Các tổ chức chính trị thành viên của Mặt trận được xây dựng và phát triển nhanh, có ảnh hưởng rộng rãi. Đặc biệt, sau khi Mặt trận ra đời, với Tuyên ngôn và Chương trình hành động của mình, trong năm 1961, các tổ chức quân sự, tổ chức giai cấp, các tôn giáo, các dân tộc và các giới đồng bào ở miền Nam lần lượt thành lập các hội đoàn và trở thành thành viên chính thức của Mặt trận.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là ngọn cờ công khai đoàn kết, tập hợp, tổ chức, lãnh đạo các hoạt động đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam không những có uy tín trong nước mà còn có vị thế trên trường quốc tế. Trong Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương, tháng 3-1965, Mặt trận là đại biểu chính thức của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Tháng 6-1967, Mặt trận thiết lập cơ quan đại diện tại Phnôm Pênh.
Ngày 30-6-1967, Chính phủ Cu Ba cử đại sứ đặc mệnh toàn quyền, bên cạnh Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngày 10-12-1968, Mặt trận đã cử đoàn đại biểu tham dự Hội nghị bốn bên ở Paris do đồng chí Trần Bửu Kiếm làm Trưởng đoàn.
Ngày 30-4-1975, cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam hiên ngang tung bay trên nóc dinh Tổng thống Sài Gòn, đánh dấu sự toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 2-1977, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam hợp nhất với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành một tổ chức duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Từ ngày thành lập đến ngày toàn thắng 30-4-1975 là một chặng đường đấu tranh gian khổ, nhưng hết sức vẻ vang của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sứ mệnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là tập hợp lực lượng nhân dân miền Nam với sự chi viện của miền Bắc XHCN để hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ. Mặt trận đã kế thừa những kinh nghiệm của quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam và vận dụng một cách sáng tạo vào cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Giải Bài Tập Địa Lí Lớp 9 Bài 1: Cộng Đồng Các Dân Tộc Việt Nam
Giải bài tập Địa lí lớp 9 Bài 1: Cộng đồng các dân tộc Việt Nam
(trang 4 sgk Địa Lí 9): – Hãy kể tên một số sản phẩm thủ công tiêu biểu của các dân tộc ít người mà em biết.
Trả lời:
Dệt thổ cẩm, đan lát, làm gốm, rèn sắt, …
(trang 5 sgk Địa Lí 9): – Dựa vào vốn hiểu biết, hãy cho biết dân tộc Việt (Kinh) phân bố chủ yếu ở đâu ?
Trả lời:
Dân tộc Việt (Kinh) phân bố chủ yếu ở các vùng đồng bằng, trung du và ven biển.
(trang 5 sgk Địa Lí 9): – Dựa vào vốn hiểu biết, hãy cho biết các dân tộc ít người phân bố chủ yếu ở đâu ?
Trả lời:
Các dân tộc ít người phân bố chủ yếu ở miền núi và trung du.
Bài 1: Nước ta có bao nhiêu dân tộc ? Những nét văn hoá riêng của các dân tộc thể hiện ở những mặt nào ? Cho ví dụ.
Lời giải:
– Nước ta có 54 dân tộc.
– Những nét văn hoá riêng của các dân tộc thể hiện ở ngôn ngữ, trang phục, quần cư, phong tục, tập quán,…
– Ví dụ: người Gia – rai theo chế độ mẫu hệ, vợ chồng lấy nhau cư trú bên nhà vợ, con cái lấy họ mẹ; y phục người Ê – đê thường có màu chàm, hoa văn sặc sỡ,..
Bài 2: Trình bày tình hình phân bố của các dân tộc ở nước ta
Lời giải:
– Dân tộc Việt (Kinh) phân bố chủ yếu ở các vùng đồng bằng, trung du và ven biển.
– Các dân tộc ít người phân bố chủ yếu ớ miền núi và trung du:
+ Trung du và miền núi Bắc Bộ là địa bàn cư trú đan xen của trên 30 dân tộc. Ở vùng thấp, người Tày, Nùng sống tập trung đông ở tản ngạn sông Hồng; người Thái, Mường phân bố từ hữu ngạn sông Hồng đến sông Cả. Người Dao sống chủ yếu ở các sườn núi từ 700 – 1000m. Trên các vùng núi cao là địa bàn cư trú của người Mông.
+ Khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên có trên 20 dân tộc ít người. Các dân tộc cư trú thành từng vùng khá rõ rệt, người Ê – đê ở Đắk Lắk, người Gia – rai ở Kom Tum, và Gia Lai, người Cơ – ho chủ yếu ở Lâm Đồng,…
+ Các tỉnh cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ có các dân tộc Chăm, Khơ – me. Người Hoa tập trung chủ yếu ở các đô thị, nhất là thành phố Hồ Chí Minh.
– Hiện nay, phân bố dân tộc đã có nhiều thay đổi. Một số dân tộc ít người từ miền Bắc đến cư trú ở Tây Nguyên.
Bài 3: Dựa vào bảng thông kê (trang 6 SGK) cho biết em thuộc dân tộc nào? Dân tộc em dứng thứ mấy về số dân trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam ? Địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc em ? Hãy kế một số nét văn hoá tiêu biểu của dân tộc em.
– Ví du: Em thuộc dân tộc Kinh.
– Dân tộc Kinh đứng đầu về số dân trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
– Địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc em là đồng bằng, trung du và ven biển.
– Một sô nét văn hoá tiêu tiểu ở nhà trệt, canh tác lúa nước, ăm cơm bằng đũa, nhiều công trình kiến trúc có giá trị (chùa chiền, lăm tẩm, đền đài…).
Bạn đang đọc nội dung bài viết Mốc Son Chói Lọi Trong Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!