Đề Xuất 6/2023 # Một Số Câu Thơ Và Lời Bài Hát Về Chiến Thắng Điện Biên Phủ # Top 8 Like | Asianhubjobs.com

Đề Xuất 6/2023 # Một Số Câu Thơ Và Lời Bài Hát Về Chiến Thắng Điện Biên Phủ # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Một Số Câu Thơ Và Lời Bài Hát Về Chiến Thắng Điện Biên Phủ mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Có những câu thơ, lời bài hát nào về chiến thắng Điện Biên Phủ nhỉ?​

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những chiến thắng lịch sử của dân tộc ta, cũng là trận đánh lớn nhất của quân đội Việt Nam ta với thực dân Pháp do đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa rất to lớn, đây là lần đầu tiên quân đội của nước thuộc địa Châu Á đánh thắng quân đội của cường quốc châu Âu bằng sức mạnh quân sự. Và sau đây vforum sẽ gửi đến các bạn một số câu thơ hoặc lời bài hát về chiến thắng Điện Biên Phủ

Một số câu thơ hoặc lời bài hát về chiến thắng Điện Biên Phủ

Bài thơ về chiến thắng Điện Biên Phú 1: HOAN HÔ CHIẾN SĨ ĐIỆN BIÊN

I Tin về nửa đêm Hỏa tốc hỏa tốc Ngựa bay lên dốc Đuốc chạy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa…

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp! Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp! Vinh quang Tổ quốc chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại

Kháng chiến ba nghìn ngày Không đêm nào vui bằng đêm nay Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực Trên đất nước, như Huân chương trên ngực Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!

Điện Biên vời vợi nghìn trùng Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta Đêm nay bè bạn gần xa Tin về chắc cũng chan hòa vui chung.

II Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn! Những đồng chí thân chôn làm giá súng Đầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt, còn ôm… Những bàn tay xẻ núi lăn bom Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện

Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến Mấy tầng mây gió lớn mưa to Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát Dù bom đạn xương tan, thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh… Hỡi các chị, các anh trên chiến trường ngã xuống Máu của anh chị, của chúng ta không uổng! Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng…

III Lũ chúng nó phải hàng, phải chết Quyết trận này quét sạch Điện Biên! Quân giặc điên Chúng bay chui xuống đất Chúng bay chạy đằng trời? Trời không của chúng bay Đạn ta rào lưới sắt! Đất không của chúng bay Đai thép ta thắt chặt!

Của ta trời đất đêm ngày Núi kia, đồi nọ, sông này của ta Chúng bay chỉ một đường ra Một là tử địa, hai là tù binh Hạ súng xuống rùng mình run rẩy Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm! Nghe trưa nay tháng năm, mùng bẩy Trên đầu bay thác lửa hờn căm Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ Tướng quân bay lố nhố cờ hàng Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng Rực trời đất Điện Biên toàn thắng! Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Tiếng reo núi vọng sông rền Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ Bác đang cúi xuống bản đồ Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo… Từ khi vượt núi qua đèo Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày Tin về mừng thọ đêm nay Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!

IV Đồng chí Phạm Văn Đồng Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành Ngày mai, vào cuộc đấu tranh Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít Anh sẽ nói: “Thực dân, phát xít Đã tàn rồi! Tổ quốc chúng tôi Muốn độc lập, hòa bình trở lại Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái Nước chúng tôi và nước các anh Nếu còn say máu chiến tranh Ở Việt Nam, các anh nên nhớ Tre đã thành chông, sông là sông lửa Và trận thắng Điện Biên Cũng mới là bài học đầu tiên!”

Đây là một trong những bài thơ về chiến thắng Điện Biên Phủ hay nhất và tác giả chẳng ai xa lạ đó chính là Tố Hữu. Bài thơ dài tới 96 câu thơ, ra đời vào tháng 5 – 1954, viết bằng thể thơ tự do có vần vìTố Hữu không viết thơ không vần bao giờ, xen lẫn những đoạn lục bát và vài ba câu song thất, như những lời hát hân hoan xen vào một ký sự thơ. Bài thơ khá dài, vì thế mà Tố Hữu đã tổ chức bố cục thật chặt chẽ và khoa học.​

Bài thơ về chiến thắng Điện Biên Phủ 2: QUÂN TA TOÀN THẮNG Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ

20 tháng 11 năm cũ, Giặc Pháp nhảy dù Điện Biên Phủ. Hăm mốt tiểu đoàn tinh nhuệ nhất, Xe tăng, súng lớn đầy chồng chất. Chúng khoe rằng: “Kế hoạch Na-va Thật là mạnh dạn và tài hoa. Phen này Việt Minh phải biết tay, Quan thầy Mỹ thì vui lòng thay!” Các báo phả n động khắp thế giới Inh ỏi tâng bốc Na-va tới. * Bên ta thì: Bộ đội, dân công quyết một lòng, Xẻ non, đắp suối, vượt qua sông, Khắc phục khó khăn và hiểm trở; Đánh cho giặc tan mới hả dạ; Lặng lẽ chuẩn bị suốt tháng ngày, Không quản gian khổ và đắng cay; Quyết tâm làm cho tròn nhiệm vụ Đã hứa với Bác, Đảng, Chính phủ. 13 tháng 3 ta tấn công, Giặc còn ở trong giấc mơ nồng: “Mình có thầy Mỹ lo cung cấp; Máy bay cao cao, xe tăng thấp, Lại có Na-va cùng Cô-nhi, Những tay tướng giỏi nắm chỉ huy. Chúng mình chuyến này nhất định thắng, Việt Minh ắt thua chạy quýnh cẳng”. * Hơn 50 ngày ta đánh đồn, Ta chiếm một đồn, lại một đồn. Quân giặc chống cự tuy rất hăng, Quân ta anh dũng ít ai bằng. Na-va, Cô-nhi đều méo mặt, Quân giặc tan hoang, ta vây chặt, Giặc kéo từng loạt ra hàng ta, Quân ta vui hát “khải hoàn ca”. Mười ba quan năm đều hàng nốt, Tên tướng chỉ huy cũng bị nhốt. Một vạn sáu ngàn tên giặc Tây, Đều là tù binh hoặc bỏ thây. * Thế là quân ta đã toàn thắng Toàn thắng là vì rất cố gắng. Chiến sĩ viết thư dâng Cụ Hồ: “Xin Bác vui lòng mà nhận cho Món quà chúc thọ sinh nhật Bác, Chúng cháu cố gắng đã sắm được”.

Tác giả của Bài thơ nay là Hồ Chí Minh người cha già dân tộc, lãnh tụ vĩ đại của chúng ta. Bác viết bài thơ xuất phát từ cảm xúc cao độ về chiến thắng trong trận Điện Biên Phủ vang dội của quân đội ta. Đây là bài thơ khá dài gồm 45 câu, bài thơ này Bác dùng hình thức tự sự, có bốn đoạn, mỗi đoạn cách nhau bằng dấu hoa thị.​

Bài thơ về chiến thắng Điện Biên Phủ 3: Hai mươi năm điệu múa xoè hoa

Sống đời đời là ngọn lửa Hai mươi năm Ta về đây gặp lại điệu xoè Những mái nhà sàn ru cho ngực thở Khuôn mặt anh hùng lạc vào vách núi Đại bác gầm dữ dội Bộc phá trong chớp giật mưa nguồn Những binh đoàn mũ nan Thân gầy áo vải Chân đất đạp rào kẽm gai chảy máu Lưỡi lê vụt bay Hôm nay Khói trầm nghi ngút đồi A1 Hoa dâng Phan Đình Giót Ong bay quanh Bế Văn Đàn Ngựa hí vang cửa ngõ Him Lam Bướm khoe sắc dưới trời Hồng Cúm Các em hát về Tô Vĩnh Diện Đêm sao rơi xuống lửa mơ màng Phiên chợ Nhấp nhô Ô xanh Nón trắng Điệu xoè em gọi về từng trận đánh Năm mươi sáu ngày đêm Lửa ngút trời Máu đỏ đất Điện Biên Phút đại thắng quân reo tưỏng vỡ tung lồng ngực Nằm lại nơi đây những đứa con yêu của bao làng quê đất nước Để một dáng đứng tổ ba người cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát Em múa xoè bên miệng súng khói chưa tan Rưng rưng ánh mắt Hai mươi năm ngỡ mới hai mươi ngày Ta vít cong cần rượu nồng say Mùi xôi thơm khắp ba triền thung lũng Ôi! Những chiến sĩ Điện Biên năm xưa giờ vai còn mang súng

Hai mươi năm Điệu xoè hoa em theo các anh đi Những búp tay kia như lần đâu ta thấy Bộ gõ nhịp nhàng Bàn chân nhún nhảy Mùa lạc hoa vàng cánh bướm phơi Ta theo em xoè nơi nơi Mỗi thước đất gặp một dòng tráng sử Từ trong nỗi nhớ Lại hồi âm tiếng đại pháo ta gầm Giữa hiện tại nông trường lẫn vào mùa quả chín Ta nhận ra đường hào vây lấn tháng năm Ta gặp vẹn nguyên từng nụ cười đồng đội Cả mắt người chỉ huy chỉ nhìn không nói Vừng mặt trời mọc dậy giữa khói bom Ta ôm những dũng sĩ pháo binh mười ngày cơm đói Cõng pháo băng qua đỉnh núi chon von Cảm ơn em! Hai mươi năm Ta về đây gặp lại điệu xoè Ta đi Ta nhớ Sống đời đời là ngọn lửa Đất nước sẽ là một Điện Biên mới nữa Em ơi! Thời gian!

Đây là bài thơ được viết vào dịp kỉ niệm 20 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ. Qua những lời thơ tác giả như muốn đưa chúng ta sống lại trong ngày đại thắng của lịch sử dân tộc thêm một lần nữa, những câu chữ, lời văn thật xúc tích cảm động.​

Lời bài hát về chiến thắng Điện Biên Phủ 4: CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN

Giải phóng Điện Biên bộ đội ta tiến quân trở về. Giữa mùa này hoa nở miền Tây Bắc tưng bừng vui. Bản mường xưa nương lúa mới trồng. Kìa đàn em bé giữa đồng nắm tay xòe hoa.

Dọc đường chiến thắng ta tiến về Đoàn dân công tiền tuyến vẫy chào pháo binh vượt qua. Súng đại bác quấn lá ngụy trang Từng đàn bươm bướm trắng rỡn lá ngụy trang Xiết bao sướng vui từ ngày lên Tây Bắc Đồng bào nao nức mong đón ta trở về.

Giờ chiến thắng ta đã về vui mừng đón chúng ta tiến về Núi sông bừng lên. Đất nước ta sáng ngời cánh đồng Điện Biên. Cờ chiến thắng tưng bừng trên trời.

Giải phóng miền Tây bộ đội ta đã mau trưởng thành Thắng trận Điện Biên Phủ càng tin quyết tâm ở trên Đổ mồ hôi phá núi bắc cầu. Vượt rừng qua suối đắp đường thắng lợi về đây.

Phương châm đánh chắc ta tiến lên Lực lượng như bão táp quân thù mấy cũng phải tan Vang lừng tiếng súng khi mừng công Thỏa lòng ta dâng Bác bấy lâu chờ mong Xiết bao sướng vui nhìn đồng quê phơi phới Nông dân hăng hái khi chúng ta trở về.

Ruộng đất chúng ta đã về vui mừng đón chúng ta tiến về Chiến sĩ Điện Biên Thế giới đang đón mừng. Chiến dịch đại thắng lợi góp sức xây dựng hòa bình.​

Lời bài hát về chiến thắng Điện Biên Phủ trên 5: HÀ NỘI – ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG

Bê năm hai tan xác cháy sáng bầu trời Hào khí thăng long ánh lên ngời ngời Rồng ta lao vút tới vây bắt lũ hung thần khát máu Ý chí chúng ta đây mạnh hơn ngàn lần bom súng quân thù Một trận điện biên nay sẽ vùi mộng xâm lăng.

Hà nội ơi! đây thăng long, đây đông đô Đây hà nội hà nội của chúng ta Trong trận điện biên mới oai hùng Sáng rực hào quang chiến thắng.

Hà nội ơi, dẫu phố phường bị giặc tàn phá đau thương Ta bước trên đầu thù Tự hào thay dáng đứng việt nam Một điện biên sáng chói, hà nội ơi.

Nhân dân ta tay súng giữ lấy cuộc đời Dù mấy gian lao vẫn tươi nụ cười Niềm tin ta sắt đá bom mỹ đâu lay được ý chí Giữ vững thành đồng miền nam rền vang tiếng súng giệt thù Hiệp đồng trận hôm nay sáng cả trời bắc nam.

Hà nội đây! đế quốc mỹ có nghe chăng Câu trả lời của hà nội chúng ta Đâu chỉ vì non nước riêng này Phất ngọn cờ sao chính nghĩa.

Hà nội ơi, trong bom đạn vẫn ngời ánh sáng tương lai Ghi chiến công tuyệt vời Một điện biên sáng chói, hà nội ơi.

Lời bài hát về chiến thắng Điện Biên Phủ 6: ÂM VANG ĐIỆN BIÊN Năm mươi năm Điện Biên chiến thắng Âm vang xa sâu lắng tự hào Trường kì kháng chiến gian lao Lập nên thành tích ghi vào sử xanh.

Bao anh hùng lưu danh muôn thuở Lấy thân mình lấp lỗ châu mai Thân chen cây pháo lăn dài Thân làm giá súng nhớ hoài ghi công.

Bao chiến sĩ dân công nam nữ Đã viết nên trang sử oai hùng Xứng danh con cháu Lạc Hồng Khí huyết rạng rỡ giữa lòng Việt Nam.

Bao chiến sĩ dân công nam nữ Đã viết nên trang sử oai hùng Pháp thua Mỹ cút Ngụy nhào Việt Nam thống nhất vui nào vui hơn.

Lời bài hát về chiến thắng Điện Biên Phủ 6:QUA MIỀN TÂY BẮC

1- Qua miền Tây Bắc núi vút ngàn trùng xa Suối sâu đèo cao bao khó khăn vượt qua Bộ đội ta vâng lệnh Bác Hồ Về đây giải phóng quê nhà Đất nước miền Tây Bắc đau thương Từ bao lâu dưới ách loài giặc tàn ác Quân với dân một lòng không phân biệt xuôi ngược Cùng đồng tâm tiêu diệt hết quân thù.

2- Qua miền Tây Bắc ta phá đồn giặc tan Nương lúa xanh về ta vui sống trong tự do Miền rừng núi hướng về Bác Hồ Từ đây giải phóng quê nhà Chiến thắng miền Tây Bắc hân hoan một niềm vui Thoát ách loài giặc tàn ác. Tay nắm tay vui mừng không phân biệt xuôi ngược Cùng dựng xây tươi đẹp nước non nhà.​

Chiến Thắng Điện Biên Phủ

Ba tiếng Điện Biên Phủ đã trở thành niềm tự hào và biểu tượng của sức mạnh Việt Nam.

‘Chín năm làm một Điện Biên’

Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp.

Trong số đó, chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông (năm 1947) là đòn quyết định làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng và đầu não kháng chiến; Chiến thắng Biên giới (năm 1950) đã tạo ra một bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới, chuyển hẳn sang liên tục tấn công và phản công địch.

Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố.

Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu-Đông năm 1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương.

Theo đánh giá của tướng H.Navarre và các nhà quân sự Pháp-Mỹ thì “Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông Dương và cả miền Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc. Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam”.

Trước âm mưu của địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân với phương châm: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.

Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châu và Thượng Lào, ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ với dự định xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh.

Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc.

Đối với địch, đây có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á. Do đó, chúng liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.

Cụ thể, chúng đã cho tập trung ở đây 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới.

Theo đó, Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava. Và thực dân Pháp tin chắc lòng chảo này sẽ “nghiền nát” quân đội Việt Nam.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.

Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy và Chỉ huy trưởng mặt trận.

Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.

Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng.”

Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000 quân. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch.

Trên 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch…

Đến đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.

‘Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng’

17 giờ ngày 13/3/1954, quân ta tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử bắt đầu.

Ngay phút đầu, trong trận tấn công cụm cứ điểm Him Lam, pháo binh ta đã lập công, bắt chết tên quan tư Paul Pégot – chỉ huy Him Lam và tên quan năm Gôxê – chỉ huy phân khu trung tâm.

Sau 2 giờ chiến đấu, ta tiêu diệt 2 cứ điểm. Tại cứ điểm thứ 3 phía Tây Bắc Him Lam, từ một lô cốt ngầm, địch bắn ra ác liệt. Một chiến sỹ mình đầy thương tích của ta đã trườn lên, dồn hết sức lao vào lấp lỗ châu mai, dập tắt hỏa điểm địch. Đó chính là anh hùng Phan Đình Giót.

Trận đầu phải thắng, đó là truyền thống của quân đội ta. Trong ngày mở màn chiến dịch, ta tiêu diệt Him Lam, diệt 300 tên địch, bắt sống 200 tù binh.

Liên tiếp các ngày từ 14 đến 17/3, ta tiêu diệt nhanh gọn 2 cụm cứ điểm kiên cố vào bậc nhất của địch, đồng thời làm tan rã một tiểu đoàn địch. Quân Pháp ở vị trí Bản Kéo sợ hãi kéo cờ trắng ra hàng. Cánh cửa phía Bắc vào Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị phá toang.

Với khí thế phấn khởi đánh thắng trận đầu, quân ta tấn công đợt 2 vào 5 cao điểm phía Đông then chốt phòng ngự của địch. Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận.

Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp hàng trăm máy bay chiến đấu và vận tải; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương.”

Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Từ ngày 30/3 đến 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm, thắt chặt vòng vây, chia cắt và kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho các cứ điểm.

Đây là đợt tấn công dài ngày nhất, quyết liệt nhất, ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

Từ ngày 1/5/1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Đêm ngày 6/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm kiên cố của địch. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng.

17 giờ 30 ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!

Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ôtô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là biểu hiện rực rỡ sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta. Mới gần 10 tuổi, quân đội ta đã ghi trên Quân kỳ hàng nghìn chiến công, mà đỉnh cao và đời đời bất diệt là Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đây là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thời gian đã lùi xa, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” mãi mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam; là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ, động viên to lớn, đồng thời để lại nhiều bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Diễn biến chính của chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến – Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. (Nguồn: TTXVN)

Ngày 20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, manh nha ý định xây dựng căn cứ quân sự ở đây và ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam chiếm đóng Tây Bắc.

Ngày 3/12/1953, Navarre chính thức quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau khi nghiên cứu, xem xét và cân nhắc những điều kiện thuận lợi tại thung lũng lòng chảo phía Tây Bắc Việt Nam.

Quyết định này đưa tới sự ra đời của tập đoàn cứ điểm “chưa từng thấy” ở Đông Dương với 49 cứ điểm mạnh mẽ, được đầu tư viện trợ tối đa và binh lực và hỏa lực và sự dẫn dắt, chỉ huy của Đại tá De Castries.

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông- Xuân 1953-1954 của ta với Thực dân Pháp, đồng thời cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng tư lệnh mặt trận.

Ngày 26/1/1954, Tổng tư lệnh mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc.”

Ngày 31/1/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ chuyển vị trí đóng quân đến khu rừng Mường Phăng trên đại điểm xã Mường Phăng, huyện Điện Biên cách Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 40km đường bộ và khoảng hơn 15km đường chim bay.

Ngày 13/3/1954, sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, ta chính thức mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ tại Trung tâm đề kháng Him Lam, một trong những cụm cứ điểm mạnh nhất của Pháp nằm phía Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm.

Ngày 31/3/1954, Đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh, thừa cơ tiến vào khu trung tâm, nơi có Sở chỉ huy của De Castries.

Ngày 1/5/1954, Đợt tấn công cuối cùng nhằm kết thúc số phận của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tiến hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất là tiêu diệt nốt A1 và C2, thừa cơ tiến hành tổng công kích. 6/5/1954, vào lúc 20 giờ 30 phút, khối bộc phá 960kg nổ trên Đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Ngày 7/5/1954, sau khi mở được chiếc chìa khóa cuối cùng A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De Castries. Không có sự kháng cự, De Castries cùng Bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng.

Ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneva được ký kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương.

Thứ trưởng Thường trực Bùi Thanh Sơn làm việc tại tỉnh Điện Biên

TGVN. Ngày 22/8, Đoàn công tác Bộ Ngoại giao do Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn làm …

Điện Biên Phủ: Kể chuyện ở thời bình

(TGVN).Câu chuyên được kể ở Hà Nội vào những ngày tháng bình yên sau 65 năm trận chiến “chấn động địa cầu”. Các diễn giả …

De Gaulle và Việt Nam – thêm một góc nhìn để hiểu về chiến thắng Điện Biên Phủ

Tối 6/5, tại Hà Nội, ấn bản tiếng Việt của cuốn sách De Gaulle và Việt Nam (1945 – 1969) của chúng tôi Pierre Journoud đã …

Những Ca Khúc Bất Hủ Về “Chiến Thắng Điện Biên Phủ”

Nhạc sỹ Nguyễn Thành viết nhạc phẩm “Qua miền Tây Bắc” trước khi có chiến dịch Điện Biên Phủ. Ca khúc đầy chất thơ và hiện thực đã nói lên một tấm lòng yêu nước nồng nàn của chiến sĩ ta. Nguyễn Thành đã sáng tác “Qua miền Tây Bắc” ở đỉnh đèo Khâu Vác cao trên 2.000 mét, đó là cửa ngõ vào Điện Biên Phủ.

Để có một tác phẩm như thế, tác giả đã phải mất ba lần tự mình đi qua miền Tây Bắc. Trong ca khúc “Qua miền Tây Bắc”, tác giả đã ghi lại những tình cảm nồng nhiệt cùng tấm lòng rất chân thật, tình nghĩa đối với Tây Bắc.

2. Hành quân xa – Nhạc sỹ Đỗ Nhuận

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận với những nhạc phẩm tiêu biểu “Hành quân xa”, “Trên đồi Him Lam”, “Giải phóng Điện Biên”… đã phản ảnh chân thực cuộc chiến tranh chính nghĩa, hào hùng của nhân dân ta. Nếu “Hành quân xa” là những lời động viên nhẹ nhàng, ngắn gọn, dễ hiểu, chân tình đối với cán bộ, chiến sĩ, giúp họ vượt qua những cuộc hành quân khó khăn, gian khổ, thì “Trên đồi Him Lam” là những dự cảm về một thắng lợi của quân đội ta đang đến gần.

Ở “Hành quân xa” là những lời động viên, an ủi bằng ca từ thật giản dị: “Hành quân xa dẫu có nhiều gian khổ. Vai vác nặng ta đã đổ mồ hôi… Chí căm thù bởi bọn thực dân nó áp bức. Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi…”.

3. Trên đồi Him Lam – Nhạc sỹ Đỗ Nhuận

Người chiến sĩ nói câu ấy không bao giờ trở về nữa vì anh chính là liệt sĩ Phan Đình Giót đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong trận Him Lam. Sau này Đỗ Nhuận mới biết rõ. Và bài hát “Trên đồi Him Lam” đã được ông sáng tác ngay tại trận địa, giữa bộn bề ngổn ngang xác xe pháo trong mùi khói khét lẹt của đạn bom và xác giặc: “Hôm qua đánh trận Điện Biên chiến hào xuất kích đồi Him Lam ta tiến quân vào, đột phá tiêm đao tiến đánh vào…”.

4. Hò kéo pháo – Nhạc sỹ Hoàng Vân

Một hình ảnh không thể nào quên trong cuộc chiến ở Điện Biên là hình ảnh “Kéo pháo vào – kéo pháo ra”. Nhạc sĩ Hoàng Vân tác giả của bài hát “Hò kéo pháo” đã kể lại: Đêm đêm theo tiếng hò “dô ta nào, hai ba nào, tiếng mõ tre cốc cốc” làm hiệu lệnh dưới ánh trăng, hàng trăm chiến sĩ mặc áo trấn thủ, đội mũ nan cúi rạp người, choãi chân, những bắp tay rắn chắc bám vào dây trão, dây mây, dây song để kéo pháo…

Tất cả những hình ảnh, những âm thanh đó đã tạo nên một bức tranh hùng vĩ, một không khí náo nhiệt hừng hực khí thế quyết tâm làm vang động cả núi rừng Điện Biên. “Hò kéo pháo” đã được nhạc sĩ viết ngay tại mặt trận.

5. Giải phóng Điện Biên – Nhạc sỹ Đỗ Nhuận

Xuất xứ ra đời của “Giải phóng Điện Biên” đã được nhạc sĩ Đỗ Nhuận ghi chép trong hồi ký “Âm thanh cuộc đời” như sau: “Ngày 7-5-1954, chúng tôi đang cuốc, rải đá, thì vào buổi chiều, một đồng chí liên lạc từ mặt trận đạp xe qua, reo to: “Mường Thanh địch hàng rồi! Giải phóng Điện Biên rồi!”. Tất cả đoàn văn công ngừng tay cuốc, ôm nhau nhảy không cần nhạc đệm… Tôi lại đàn, lại hát. Đêm hôm đó, tôi ngồi viết bên bếp nhà sàn đỏ lửa, thâu đêm, suốt sáng. Tay búng chiếc violin, mồm cứ y ỷ, sợ làm ồn anh em mất ngủ. Có mấy củ sắn lùi trong bếp than để bồi dưỡng đêm, tôi vừa viết, vừa bóc sắn ăn”.

Ca khúc “Giải phóng Điện Biên” đã ra đời từ đó. Kết thúc bài hát, ca từ chợt vút lên thật hào hùng: “Núi sông bừng lên/Đất nước ta sáng ngời/Cánh đồng Điện Biên, cờ chiến thắng tưng bừng trên trời”./.

Chiến Dịch Điện Biên Phủ

Theo đánh giá của tướng H.Navarre và các nhà quân sự Pháp-Mỹ thì “Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông Dương và cả miền Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc. Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam”.

Đánh giá Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất ở Đông Dương, nên sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 20/11/1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương.

Tính đến tháng 3/1954, tại Điện Biên Phủ đã có 12 tiểu đoàn và bảy đại đội bộ binh, ba tiểu đoàn pháo binh, một đại đội xe tăng, một phi đội máy bay thường trực (14 chiếc). Sau này trong quá trình chiến dịch, quân Pháp tăng viện thêm bốn tiểu đoàn, hai đại đội lính dù, tổng cộng có 17 tiểu đoàn, phần lớn đều là lính tinh nhuệ. Ngoài ra còn có các quân chủng pháo binh, công binh, thiết giáp, phân đội hỏa pháo. Tổng số quân tăng lên hơn 16.000 người và 300 máy bay vận tải tiếp tế, có sự chi viện của không quân Mỹ.

Tại Hội nghị phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 diễn ra cùng thời điểm quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng, “địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là để che chở cho Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp. Như vậy là bị động phân tán lực lượng để đối phó với ta. Vô luận rồi đây, địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta.”

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh Trần Đình, nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hoàng Văn Thái – Tham mưu trưởng, Lê Liêm – Chủ nhiệm Chính trị, Đặng Kim Giang – Chủ nhiệm Cung cấp.

Với những nỗ lực cao nhất, Việt Nam đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhiều tầng lớp nhân dân hăng hái lên đường tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ như công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sỹ… Và đã có biết bao tấm gương hy sinh trên đường ra trận, nhiều anh hùng quên mình xả thân cho cuộc kháng chiến.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh, đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Đầu tháng 3/1954, thời gian chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với phương châm “đánh chắc, tiến chắc” đã hoàn thành. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có tất cả 49 cứ điểm, được chia làm ba phân khu. Trên chiến trường, ta mở ba đợt tiến công vào Điện Biên Phủ.

Đợt một của chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn ngày 13/3/1954, với trận tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam thuộc vòng ngoài Phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. Đợt hai diễn ra ngày 30/3/1954, đánh vào phân khu trung tâm. Đợt ba chiến dịch diễn ra ngày 1/5 và kết thúc ngày 7/5/1954, đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Sau 56 ngày đêm chiến đấu, hy sinh, gian khổ, quân và dân Việt Nam đã tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị cùng ký Hiệp định Geneva chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược (1945-1954) ở Đông Dương, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Hiệp định Geneva đã tạo được cục diện mới, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý rất quan trọng để dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).

20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, manh nha ý định xây dựng căn cứ quân sự ở đây và ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam chiếm đóng Tây Bắc.

03/12/1953, Navarre chính thức quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau khi nghiên cứu, xem xét và cân nhắc những điều kiện thuận lợi tại thung lũng lòng chảo phía Tây Bắc Việt Nam. Quyết định này đưa tới sự ra đời của tập đoàn cứ điểm “chưa từng thấy” ở Đông Dương với 49 cứ điểm mạnh mẽ, được đầu tư viện trợ tối đa và binh lực và hỏa lực và sự dẫn dắt, chỉ huy của Đại tá De Castries.

06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông – Xuân 1953 – 1954 của ta với Thực dân Pháp, đồng thời cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng tư lệnh mặt trận.

26/01/1954, Tổng tư lệnh mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc”.

31/01/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ chuyển vị trí đóng quân đến khu rừng Mường Phăng trên đại điểm xã Mường Phăng, huyện Điện Biên cách Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 40km đường bộ và khoảng hơn 15km đường chim bay.

13/3/1954, Sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, ta chính thức mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ tại Trung tâm đề kháng Him Lam, một trong những cụm cứ điểm mạnh nhất của Pháp nằm phía Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm.

31/3/1954, Đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh, thừa cơ tiến vào khu trung tâm, nơi có Sở chỉ huy của De Castries.

01/5/1954, Đợt tấn công cuối cùng nhằm kết thúc số phận của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tiến hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất là tiêu diệt nốt A1 và C2, thừa cơ tiến hành tổng công kích.

06/5/1954, vào lúc 20 giờ 30 phút, khối bộc phá 960kg nổ trên Đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

07/5/1954, sau khi mở được chiếc chìa khóa cuối cùng A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De Castries. Không có sự kháng cự, De Castries cùng Bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng.

21/7/1954, Hiệp định Gionever được ký kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Số Câu Thơ Và Lời Bài Hát Về Chiến Thắng Điện Biên Phủ trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!