Cập nhật nội dung chi tiết về Một Vài Kinh Nghiệm Rèn Luyện Kỹ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5 mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 a. đặt vấn đề I. Lời mở đầu: Môn Toán là một môn học rất quan trọng, cùng với các môn học khác nó góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu của nhân cách con người Việt nam. Là nền móng vững chắc cho nền khoa học của nước nhà. Đáp ứng với nhu cầu về sự đổi mới đất nước thì việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học môn toán là rất cần thiết đối với trình độ nhận thức của học sinh tiểu học và phù hợp với yêu cầu của thời đại. Đồng chí Phạm Văn Đồng nói “Toán học là môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo”. Vì vậy công việc của người dạy Toán là làm thế nào tổ chức thành công hoạt động trí tuệ ấy. Để góp phần đào tạo ra những con người giàu ý chí, tự lực cánh sinh, vững tin vào khối óc, bàn tay mình, người thầy giáo phải coi trọng việc rèn luyện kĩ năng tư duy độc lập cho học sinh . Đây là công việc lâu dài, cần tiến hành tuần tự có hệ thống qua mỗi khâu của công tác giảng dạy, như tiếp thu bài mới, củng cố và ôn tập, sử dụng SGK và làm bài tập. Giải toán có lời văn là một phần không thể thiếu trong toán học, nó là cầu nối giữa toán học và thực tiễn. Nhưng qua thực tế giảng dạy học sinh thực hành dạng toán này còn yếu, vì vậy tôi chọn đề tài: “Rèn luyện kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5” để nghiên cứu. II. thực trạng nghiên cứu: 1. Tìm hiểu tình hình chung: a. Thuận lợi: – Trường tiểu học Thuý Sơn 2 là một trường nằm cách xa trung tâm của xã, hầu hết các em đầu có ý thức, đạo đức tốt. Các bậc phụ huynh cũng đã quan tâm đến việc học tập của con cái. – Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh . – Bản thân tôi cũng luôn học hỏi và luyện chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh . b. Khó khăn: Đại bộ phận các em đều là gia đình nông nghiệp, kinh tế gia đình còn khó khăn, cho nên việc quan tâm đến học hành của con bị hạn chế. Mặt khác, thời gian cho làm bài tập ở nhà chưa đủ, các em còn lười suy nghĩ khi làm bài tập, đặc biệt đối với những bài toán có lời văn, các em chưa độc lập suy nghĩ để tìm ra cách giải toán có lời văn ở lớp 5 như thế nào? 2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên: Tình hình thực tiễn của lớp 5A ; 5B về chất lượng giải toán có lời văn: – Tổng số học sinh : 56 em Trong đó: Nam: 28 Nữ: 28 – Kiểm tra chất lượng đầu tiên: Giỏi Khá Trung bình Yếu 0 06 43 07 2. Gặp cha mẹ học sinh : Sau khi phân loại, tôi tiến hành gặp gỡ cha mẹ học sinh để trao đổi tình hình học tập của con em họ. Động viên cha mẹ các em tạo điều kiện về mặt thời gian để kèm cặp các em học bài và làm bài ở nhà. 3. Tìm hiểu nguyên nhân: Hầu hết các em khi làm bài toán có lời văn chưa đọc kĩ đề đã tìm các giải, có em chép lời giải trong sách giải bài tập toán, có em chưa đọc kĩ đề đã cho là bài khó, có em thì không biết phân tích đề bài, có em thì lời giải không chính xác. Xuất phát từ tình hình trên, tôi lập ra một vài kinh nghiệm để giúp đỡ các em trong quá trình giải một số bài toán có lời văn. B. Các Biện pháp thực hiện: 1. Rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn: Rèn luyễn kĩ năng giải toán cho học sinh là rèn luyện kĩ năng vận dụng thực hành thông qua tiết luyện tập và ra bài tập ứng dụng cho học sinh . Rèn luyện kỹ năng giải toán có lời văn là rèn luyện khả năng tư duy tư duy phân tích tổng hợp và tìm tòi cách giải. Để làm được những điều này cần phải rèn luyện cho các em phương pháp chung để giải một bài toán như đọc kĩ đề bài – đặt kế hoạch giải rồi từng bước thực hiện kế hoạch đó. Để giúp các em có khả năng độc lập suy nghĩ, tư duy sáng tạo, các em phải củng cố và khắc sâu kiến thức và phương pháp giải của từng dạng điển hình đã học ở lớp 4 như: – Tìm hai số khi biết tổng và hiệu – Tìm hai số khi biết tổng và tỉ. – Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ. – Toán về tỉ lệ thuận và tỉ lệ nghịch. – Chu vi, diện tích các hình Khi làm bài ta phải đọc kĩ đề bài và xác định bài toán thuộc dạng toán nào đã học. Từ đó ta có thể tóm tắt đề bài và đặt ra kế hoạch giải. Có những bài hướng dẫn các em tóm tắt bằng lời, có những bài phải tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng mới tìm ra cách giải nhanh, lấy ví dụ minh hoạ cho các em thấy có những bài cần tháo gỡ dần theo tuần tự của tóm tắt bài toán, có những bài phải tính ngược từ dưới lên. Khi phân tích đề giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để hiểu mang tính chất gợi mở khuyến khích học sinh tìm tòi, sáng tạo. Sau khi phân tích đề toán hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải. Ví dụ: Muốn có cái này ta phải tìm cái kia ra sao hoặc ngược lại muốn có cái kia ta phải tìm cái này như thế nào? Sau đó lựa chọn lời giải phù hợp với phép tính, ở mỗi tiết học, dù bài mới hay thực hành luyện tập đều phải rèn luyện cho các em có thói quen chú ý học tập, trên lớp tích cực suy nghĩ, khuyến khích các em mạnh dạn phát biểu ý kiến, xung phong chữa bài tập và ghi chép bài cẩn thận. Khi học lớp lớp cũng như ở nhà, trước hết cần nắm vững lí thuyết như khái niệm, qui tắc, công thức rồi mới làm bài tập. Cần bám vào yêu cầu của bài để đặt lời giải sao cho đúng với phép tính, tránh rườm rà hoặc yêu cầu một nơi trả lời một nẻo. Các bài toán ở phần lí thuyết giáo viên cần hướng dẫn mẫu và trình bày cẩn thận rõ ràng. Các bài luyện tập thực hành giáo viên hướng dẫn học sinh bằng các câu hỏi gợi mở nhằm khuyến khích các em tìm tòi. Việc rèn luyện kĩ năng giải toán là rèn luyện cho các em kĩ năng vận dụng thực hành. Vì vậy, học sinh phải thực hiện giải hết các bài tập của SGK và vở bài tập Toán. 2. Hình thành các bước giải: Bước 1: Tìm hiểu đề toán Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh hiểu nội dung của đề tài: Điều chưa biết, điều cần tìm. Cố gắng tóm tắt đề bằng ngôn ngữ toán học và sử dụng các kí hiệu toán học dưới dạng những điều đã biết, yêu cầu phải tìm, minh hoạ bởi sơ đồ đoạn thẳng hoặc hình vẽ. Phân tích điều phải tìm , điều cần tìm để phương hướng đi đến đích của bài. Bước 2: Tìm tòi lời giải Hướng dẫn học sinh phân tích dự đoán, liên hệ đến các bài toán đã giải. Tìm ra cách giải quyết bài toán. Đặt câu hỏi, giải thích sự cơ sở lí luận của các phép toán, củng cố các kiến thức được vận dụng trong bài. Bước 3: Trình bày lời giải Uốn nắn sửa chữa để đưa ra cách trình bày hợp lí cho lời giải của bài toán. Bước 4: Nghiên cứu thêm về lời giải – Kiểm tra kết quả, xem xét lại các lập luận – Nhìn lại toàn bộ các bước giải. Rút ra phương pháp giải một loại toán nào đó. – Tìm thêm cách cách giải khác. – Khai thác thêm các cách giải có thể có được của bài toán. 3. Thực hành: Bài tập 1: Một rạp xiếc nuôi 12 con sư tử, mỗi ngày trung bình một con sư tử ăn hết 10kg thịt. Hỏi cần bao nhiêu tấn thịt để nuôi đàn sư tử trong 30 ngày. – Tìm hiểu đề toán: + Bài toán cho biết gì? (có 12 con sư tử, mỗi con một ngày ăn hết 10 kg thịt). + Bài toán yêu cầu gì? (30 ngày cả đàn ăn hết? tấn thịt) Tóm tắt bài toán: 1 con – 1 ngày – 10 kg 12 con – 30 ngày – ? kg – Tìm tòi cách giải và lời giải: Nhìn vào tóm tắt bài toán có thể tiến hành giải từng bước như sau: 1 con – 30 ngày – ? kg + Tìm số lượng thịt cả đàn ăn ta làm thế nào? – Trình bày lời giải: 1 con ăn trong 30 ngày hết số thịt là: 10 x 30 = 300 (kg) 12 con ăn trong 30 ngày hết số thịt là: 12 x 300 = 3600 kg) = 3,6 (tấn) Đáp số: 3,6 tấn – Nghiên cứu thêm về lời giải: + Kiểm tra kết quả, xem xét lại lời giải và phép tính Như vậy khi xác định được dạng toán thông thường đã học ta có thể giải bài toán một cách dễ dàng và dễ hiểu. + Bài toán này có cách giải nào khác? + Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề giải: 1 ngày – 1 con – 10kg 1 ngày – 12 con – ? kg 30 ngày – 2 con – ? kg Một ngày cả đàn ăn hết số thịt là: 12 x 10 = 120 (kg) 30 ngày cả đàn ăn hết số thịt là: 120 x 30 = 3600 (kg) = 3,6 (tấn) Đáp số: 3,6 tấn Khi phân tích một số bài toán cần thiết lập được mối liên hệ và phụ thuộc giữa các đại lượng đã cho trong bài toán đó bằng cách tóm tắt có thể bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng sao cho thích hợp với đề bài ra để có thể dễ dàng nhận thấy được mối luên hệ và phụ thuộc giữa các đại lượng tạo một hình ảnh cụ thể giúp ta suy nghĩ tìm tòi cách giải bài toán. Bài tập 2 : Có 8 bao gạo cân nặng 243,2kg. Hỏi 12 bao gạo như thế còn nặng bao nhiêu kg? – Tìm hiểu đề toán + Bài toán cho biết gì? + Bài toán yêu cầu tìm gì? – Phân tích đề bài tìm cách giải Đây là bài toán thuộc loại toán nào ta đã học? (bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận). Cho biết hai giá trị của đại lượng thứ nhất (8 bao và 12 bao). Một giá trị của đại lượng thứ hai là 243,2kg ta phải tìm một giá trị của đại lượng thứ hai. – Tìm lời giải: + Muốn biết 12 bao gạo cân nặng bao nhiêu kg trước hết ta phải tìm gì? (tìm xem một bao cân nặng bao nhiêu kg). + Để tìm một bao cân nặng bao nhiêu làm thế nào? + Sau khi tìm được một bao cân nặng bao nhiêu ta sẽ tìm được 12 bao nặng? kg. – Trình bày cách giải: Cách 1: Một bao cân nặng số kg là: 243,2 : 8 = 30,4 (kg) 12 bao cân nặng số kg là: 30,4 x 12 = 364,8 (kg) Đáp số: 364,8 kg – Nghiên cứu thêm về lời giải: Ngoài cách giải trên còn có cách giải nào khác? Cách 2: So sánh 12 bao với 8 bao ta thấy: 12 : 8 = 1,5 (lần) Vậy 12 bao nặng số kg là: 243,2 x 1,5 = 364,8 (kg) Đáp số: 364,8 kg Như vậy, đây cũng là bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận các bước thường dùng trong giải bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận như: bước rút về đơn vị (cách 1- Bài tập 2) bước tìm tỉ số (cách 2 – à 2). Qua cách giải 2 bài toán ta có thể củng cố thêm được phương pháp và các bước tiến hành giải. – Giải bằng phương pháp rút về đơn vị thường được tuến hành theo 2 bước: + Tìm xem một đơn vị của đại lượng thứ nhất tương ứng với một giá trị nào của đại lượng thứ 2. + Có bao nhiêu đơn vị của đại lượng thứ nhất thì có bấy nhiêu lần giá trị tương ứng của đại lượng thứ hai. – Giải bằng phương pháp dùng tỉ số thường được tiến hành theo hai bước: + So sánh hai giá trị của đại lượng thứ nhất xem số này gấp mấy lần số kia (12 gấp 8 là 1,5 lần). + Giá trị đã biết của đại lượng thứ hai cũng được tăng (hoặc giảm) đúng 1 số lần vừa tìm được. Kết quả tìm được chính là số phải tìm trong bài toán. – Ra đề toán tương tự để học sinh thực hành: Ví dụ : 4,5 lít dầu hoả cân nặng 3,42kg. Hỏi 8 lít dầu hoả cân nặng bao nhiêu kg. Kết quả 100% các em làm đúng. Bài tập 3: Hai đoạn dây dài tất cả 36,8m, nếu cắt bớt một đoạn dây đi 2,2m thì được hai đoạn dây dài bằng nhau. Hỏi lúc đầu mỗi đoạn dây dài bao nhiêu mét. – Tóm tắt bài toán: + Bài toán cho biết gì? + Bài toán yêu cầu tìm gì? Nếu cắt bớt một đoạn dây đi 2,2m thì hai đoạn dây dài bằng nhau. Vậy đoạn dây nào dài hơn đoạn dây kia 2,2m. 36,8m Ta tóm tắt: Đoạn 1: Đoạn 2: Bài toán này thuộc dạng toán nào ta đã học ở lớp 4? (Tìm hai số khi biết tổng và hiệu). Cách giải dạng toán này như thế nào? – Tìm tòi lời giải: ở bài toán này phải tìm mỗi đoạn dây dài bao nhiêu mét? Nết bớt 1 đoạn 2,2m thì hai đoạn dây dài bằng nhau khi đó hai đoạn còn tất cả bao nhiêu mét? (36,8 – 2,2 = 34,6m) Vậy đoạn một dài bao nhiêu mét? (17,3 + 2,2 = 19,5m) – Trình bày lời giải: Cách 1: Nếu bớt 2,2m thì hai đoạn dây còn lại số mét là: 36,8 – 2,2 = 34,6 (m) Độ dài đoạn dây thứ nhất là: 34,6 : 2 = 17,3 (m) Độ dài đoạn dây thứ hai là: 17,3 + 2,2 = 19,5 (m) Đáp số: 19,5m và 17,3m – Nghiên cứu thêm về lời giải: Ngoài cách giải trên còn có cách giải nào khác? Nếu thêm 2,2m nữa thì độ dài hai đoạn dây bằng nhau: Đoạn 1: Đoạn 2: Khi đó tổng độ dài hai đoạn dây bằng nhau là: 36,8 + 2,2 = 39 (m) Độ dài đoạn dây thứ 2 là: 39 : 2 = 19,5 (m) Độ dài đoạn dây thứ nhất là: 19,5 – 2,2 = 17,3m Đáp số: 19,5m và 17,3m Như vậy trong một bài toán ta có thể tìm số chia tiếp bằng cách có thể tạm thời thay thế số chưa biết này bằng số chưa biết khác dựa vào các điều kiện của bài toán. – Ra đề tương tự để học sinh luyện tập. Hai lớp 5A và 5B trồng được 345 cây, lớp 5A trồng được nhiều hơn lớp 5B là 25 cây. Hỏi mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? (Biết rằng sức làm mỗi người như nhau), Kết quả bài làm: 100% làm đúng . Bài tập 4: Một lớp học có 21 học sinh giỏi toán, trong đó số em nam bằng 2/5 số em nữ. Hỏi lớp học có bao nhiêu em nữ, bao nhiêu em nam học giỏi toán. – Tìm hiểu đề toán: + Bài toán cho ta biết gì? + Bài toán yêu cầu ta tìm gì? + Bài toán thuộc dạng toán nào ta đã học? + Cách giải bài toán này như thế nào? (học sinh nêu) Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán: 21 học sinh Nam: Nữ: – Tìm tòi lời giải: Nếu số học sinh nữ chia làm 5 phần bằng nhau thì số học sinh nam bằng 2 phần thứ thế . Vậy cả nam và nữ gồm có bao nhiêu phần: 2 + 5 = 7 (phần) Số học sinh nam là: (21 : 7) x 2 = 6 (em) Số học sinh nữ là: (21 : 7) x 5 = 15 (em) Đáp số: 6 em nam và 15 em nữ Sau một thời gian vận dụng một số kinh nghiệm trong quá trình dự đoán kết quả kiểm tra cuối học kỳ I thu được của 2 lớp 5A và lớp 5B như sau: Giỏi: 04 TB: 36 Khá: 16 Yếu: 0 C. kết luận 1. kết quả nghiên cứu: Qua quá trình giảng dạy và vận dụng một vài kinh nghiệm và kĩ năng giải toán có lời văn (trong vòng 5 tháng) với tinh thần trách nhiệm cao của bản thân tôi và với sự cố gắng nỗ lực của các em đã đem lại kết quả như sau: Theo chất lượng khảo sát đầu năm ở lớp 5A và lớp 5B có em còn yếu về khi gặp giải bài toán. Sau một thời gian rèn luyện về cách giải, đa phần các em đã có kinh nghiệm giải toán tốt.GV nên tạo điều kiện cho các em có thời gian làm quen với bài toán, nghiên cứu tìm tòi lời giải bài toán và để học sinh tự hưởng niềm vui, tự mình tìm được chìa khoá cho lời giải. 2. Kiến nghị, đề xuất: – Về phía Phòng Giáo dục: + Nên đặt mua nhiều tài liệu tham khảo để cung cấp cho giáo viên ở các nhà trường lấy tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy được tốt hơn. Vì thời gian có hạn nên không sao tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong được Hội Đồng Khoa Học góp ý thêm để đề tài của tôi được hoàn hảo hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thuý Sơn, ngày 20 tháng 03 năm 2006. Người thực hiện Hoàng Thị Thương
Một Số Biện Pháp Rèn Kỹ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM "MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 " Quảng Bình, tháng 2 năm 2013 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM "MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 " Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Liên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Tùng Quảng Bình, tháng 2 năm 2013 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1.1. Cơ sở lí luận: Cùng với các môn học khác, môn Toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Môn Toán là một môn học được xem như công cụ để học các môn học khác, là "chìa khóa" mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo cho học sinh tiểu học. Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Bởi học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất cho hoạt động trí tuệ của học sinh. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Nhiều năm qua tôi được phân công giảng dạy lớp 5, bản thân tôi nhận thấy: Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Qua thực tế giảng dạy cho HS lớp 5, có khoảng 70% - 85% học sinh chưa thành thạo về giải toán có lời văn. Với những lý do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp năm nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán logic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5" để nghiên cứu với mục đích xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn nói riêng và môn toán lớp 5 nói chung. 2. PHẠM VI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: - Đối tượng: Học sinh lớp 5. - Thời gian áp dụng: Năm học 2011 - 2012 và năm học 2012 - 2013 (Trong học kì I). - Giả thuyết khoa học: Nếu sáng kiến này áp dụng thành công thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5, góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục học sinh trong nhà trường. Nếu thành công, rất mong được áp dụng cho trong tất cả các lớp ở trường tôi và các trường bạn. II. PHẦN NỘI DUNG 1. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU: 1.1. Một số đặc điểm tình hình nhà trường, giáo viên và học sinh: * Thuận lợi: - Trường có một khu vực chính 16 lớp và một khu vực lẻ có 2 lớp. Nhìn chung cơ sở vật chất, khuôn viên, các điều kiện và phương tiện dạy học ngày càng được cải tạo, tăng trưởng, từng bước đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, giáo dục hiện nay. - Trường là một đơn vị có thành tích đáng tự hào trong công tác giáo dục - đào tạo trong mấy năm gần đây. Từ năm đến ...năm... liên tục đạt danh hiệu trưưòng tiên tiến cấp huyện và được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức I năm 20.. và được kiểm tra công nhận lại vào tháng năm 2008. - Tập thể giáo viên trường tôi là một tập thể sư phạm vững mạnh và đoàn kết, thực sự tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, tất cả vì học sinh thân yêu. Tổng số cán bộ giáo viên là 30 người đều đạt chuẩn và trên chuẩn. - Đa số các em là con em nông dân, thật thà chất phác và chăm học. - Nhận thức của địa phương, phụ huynh về giáo dục ngày càng đổi mới. * Khó khăn: - Mấy năm học gần đây tôi được phân công dạy lớp 5. Học sinh lớp tôi phần lớn là con nông dân, ngoài việc làm ruộng bố mẹ hay đi làm ăn xa để kiếm thêm thu nhập nên một số em phải ở nhà với ông bà. Điều kiện kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên các em chưa thực sự được bố mẹ quan tâm đúng mức, tất cả mọi việc học của con đều phó mặc cho nhà trường. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Nhất là với môn Toán số lượng học sinh yếu còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao, có những học sinh không hiểu được đề bài toán nên làm cho có, dẫn đến kết quả của bài toán sai khá nhiều. Để thực hiện được vấn đề này, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình học sinh lớp tôi ngay khi được phân công. Trước tiên tôi xem sổ chủ nhiệm năm học trước đồng thời tôi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm rõ hơn. Sau đó tôi cho học sinh kiểm tra lại để phân loại từng đối tượng học sinh. 1.2. Số liệu thống kê: Đầu mỗi năm học tôi luôn tự khảo sát chất lượng môn Toán của lớp mình với kết quả như sau: năm học 2012 - 2013 (vì tỉ lệ học sinh yếu môn Toán chịu ảnh hưởng rất lớn ở phần bài tập giải toán có lời văn). Thời gian khảo sát Tổng số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL Năm học 2011-2012 27 3 8 8 8 Năm học 2011-2012 25 2 8% 7 28% 7 28% 9 36% * Nhận xét: Qua số liệu thống kê cho thấy số học sinh đạt loại giỏi rất ít, số học sinh đạt trung bình và yếu khá cao. Điều đó cho thấy học sinh chưa nắm vững về cách giải toán có lời văn. 1.3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5: - Kĩ năng đọc đề, phân tích đề của HS còn hạn chế. Học sinh đọc đề vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm của đề toán không chịu phân tích đề toán khi đọc đề. - Kĩ năng nhận dạng toán, nắm các bước giải trong từng dạng toán còn lúng túng. Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá vấn đề và tư duy của học sinh còn hạn chế khi gặp những bài toán phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ. - Chưa biết lập kế hoạch giải bài toán. - Kĩ năng đặt lời giải, kĩ năng tính toán của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Một số em biết tìm ra phép tính đúng nhưng khi đặt lời giải thì còn lúng túng và có khi đặt lời giải cho bài toán chưa hợp lý. - Học sinh chưa được luyện tập thường xuyên, nên thường nhầm lẫn giữa các dạng toán. - Đa số giải toán có lời văn thường tập trung ở các đối tượng học sinh khá giỏi nên thói quen của các đối tượng HS trung bình và yếu là bỏ qua các bài toán giải hoặc làm cho có, không có động não suy nghĩ. Từ thói quen lười suy nghĩ dẫn đến hiệu quả thấp. - Trí nhớ của các em chưa thoát khỏi tư duy cụ thể nên còn ngại khó khi gặp các bài toán phức tạp. Từ đó dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao. - Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan. Ngoài ra, còn có những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng trong cách trình bày nhất là với các bài toán giải có lời văn phức tạp. - Thực tế trong một tiết dạy 35 phút, vừa dạy bài mới, vừa làm bài tập và các bài toán có lời văn thường ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều nên học sinh chưa khắc sâu kiến thức, chưa nắm được mẹo để giải bài toán. - Một số học sinh gia đình còn khó khăn nên chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình dẫn ... thì học sinh phải nắm vững các quy tắc tính toán. Nhưng trong thực tế ngay cả những học sinh đã nắm vững các quy tắc tính toán vẫn có thể phạm lầm lẫn, sai sót... để tránh được những lầm lẫn, sai sót đáng tiết ấy cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính. Ví dụ: Để kiểm tra xem tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn có đúng là 125% không, các em lấy 125% nhân với số tiền vốn 42.000 đồng. Nếu ra đúng kết quả là số tiền sau khi bán rau là 52.500 đồng thì kết quả tìm được là đúng. Cụ thể: 125/100 x 42.000 = 52.500 đồng. 2. 3. Đảm bảo phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh khi học giải toán: - Trong quá trình dạy giải toán cho học sinh lớp 5, giáo viên không nên dẫn dắt quá sâu mà nên hướng dẫn tìm hiểu cách giải bằng những câu hỏi khéo léo cho học sinh tự mày mò ra con đường để tìm ra phương pháp giải toán. - Tự sửa bài tập bằng cách đối chiếu với bài của các bạn trong nhóm, bài sửa của lớp. Tự đánh giá bài làm của mình. Biết lắng nghe nhận ra điểm đúng, điểm sai qua bài làm của bạn, biết so sánh và tự sửa được bài làm một cách rõ ràng, sạch đẹp, khoa học. - Học và nắm được các dạng bài, học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà chu đáo, thi đua học tập giữa các bạn, các nhóm trong lớp. Nắm chắc các tính chất, các quy tắc đã được học. Biết vận dụng các quy tắc để giải bài một cách có hiệu quả. - Biết tự đặt ra các câu hỏi để nhờ bạn, nhờ cô giáo giải đáp nhằm làm rõ thêm kiến thức bài học. 2.4. Trong tiết học giáo viên cần chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh: - Giáo viên phải phân loại được đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu kém (chưa thành thạo về kĩ năng giải toán), phải làm cho mọi học sinh trong lớp biết dựa vào đề toán để tóm tắt, phân tích đề một cách chính xác, tìm được cách giải thích hợp. Giáo viên phải nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó giúp học sinh phát triển năng lực, sở trường cá nhân. Chẳng hạn, một bài toán giáo viên cùng cho cả lớp tìm hiểu, tóm tắt, xây dựng kế hoạch giải. Để những học sinh khá giỏi làm xong cách 1 thì các em suy nghĩ cách giải 2, 3. làm như vậy thì mới phát huy hết khả năng của từng em, tạo không khí học tập cho cả lớp tránh trường hợp học sinh khá giỏi làm xong ngồi chơi ảnh hưởng đến các bạn khác trong lớp. 2.5. Sử dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học: - Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học ở từng tiết dạy Toán có những đặc điểm riêng, không thể áp dụng một cách máy móc, đồng loạt. Không có phương pháp nào là "vạn năng". Chỉ có sự tìm tòi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới đạt được thành công trong mỗi bài dạy. Giúp cho học sinh nhận ra các kiến thức đã học hoặc một số kiến thức mới trong nội dung các bài tập đa dạng và phong phú để các em tự khai thác, khám phá tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái, lôgic, hợp lý, giúp học sinh tự luyện tập, thực hành theo khả năng riêng của mình. - Dựa vào đặc thù tâm lý học sinh mau chán nếu tiết học cứ đều đều. Vì thế giáo viên cần luôn thay đổi không khí tiết học bằng những phương pháp, hình thức tổ chức khác nhau cho tiết học sôi nổi, tạo không khí thoải mái, xây dựng môi trường toán học tự nhiên, gắn liền với thực tế, tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh. - Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập. - Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học. - Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập. - Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học. - Trong giảng dạy phải lắng nghe, thấu hiểu tâm sinh lí của học sinh, động viên khuyến khích kịp thời, nghiêm khắc kiên quyết phê bình thái độ lơ là đối với nhiệm vụ học tập. Luôn tạo cho học sinh sự hứng thú, tính sáng tạo, linh hoạt, tự tin trong làm bài. - Tổ chức tốt hình thức học tập theo nhóm, tùy theo tính chất và nội dung của bài học, tiết học mà có thể chia nhóm như sau: phân nhóm học sinh có đủ trình độ (khá, giỏi, trung bình, yếu) để học sinh giúp đỡ lẫn nhau hoặc nhóm theo trình độ (nhóm học sinh khá giỏi, nhóm học sinh trung bình, nhóm học sinh yếu). - Học sinh phải được hướng dẫn học tập bằng hình thức "học mà chơi, chơi mà học", thực hành để phát hiện kiến thức. * Hiệu quả của sáng kiến: Qua quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm "Phát huy tính tích cực trong dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5", tôi đã áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy, học sinh lớp tôi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Những học sinh yếu toán (có lời văn) có sự tiến bộ rõ rệt. Kết quả được thống kê như sau: * Năm học 2011 - 2012: Thời gian TS HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm 1-4 SL TL SL TL SL TL SL TL Giữa kì I 27 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì I 27 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% Giữa kì II 27 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì II 27 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% * Năm học 2012 - 2013: Thời gian TS HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm 1-4 SL TL SL TL SL TL SL TL Giữa kì I 25 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì I 25 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% Thực tế giảng dạy cho tôi nhận thấy việc sử dụng phát huy tính tích cực trong giải toán là một phương pháp rất tốt và khoa học, mang lại hiệu quả cao. Đồng thời giúp học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và khả năng suy luận logic, vận dụng tri thức và kĩ năng thực hành vào thực tiễn. Cũng thông qua giải toán luyện cho học sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch. Chất lượng học tập môn toán của lớp tôi tăng dần, các học sinh yếu toán có lời văn ban đầu rất sợ học toán nhưng dần dần học được và yêu thích học toán. III. PHẦN KẾT LUẬN 1.Ý nghĩa của sáng kiến: Với kết quả trình bày ở trên, có thể khẳng định việc phát huy tính tích cực trong dạy học giải toán cho học sinh lớp 5 cơ bản đã thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của sáng kiến. Đồng thời nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện giải toán (có lời văn) đối với việc phát triển tư duy cho học sinh, rèn luyện cho các em kĩ năng tính toán. Việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi nắm vững hơn về nội dung và phương pháp dạy học toán ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Trên cơ sở đó, bản thân cũng hiểu hơn về tính ưu việt của phương pháp dạy học mới, thấy được sự cấp bách, vận dụng vào việc giảng dạy và cũng hiểu được những khó khăn, vấp váp của học sinh lớp 5 khi học giải toán có lời văn. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học toán và nhận thấy rằng: - Hầu hết học sinh có năng lực, hứng thú học tập môn toán, kĩ năng tính toán nhanh, chính xác, hiểu bài, đạt yêu cầu với tỉ lệ khá cao. Tỉ lệ giỏi toán cao hơn các môn học khác. - Trong tiết học, học sinh thường thể hiện năng lực sáng tạo, ham học, tự tin, hứng thú khi tự mình tìm ra kiến thức mới, có tinh thần tích cực xây dựng bài. - Giáo viên áp dụng kiểu dạy học "lấy học sinh làm trung tâm" khá tích cực, sinh động và hiệu quả góp phần không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các em - những mầm non tương lai của đất nước. MỤC LỤC Nội dung Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU 3 1. Lí chọn đề tài 6 2. Phạm vi áp dụng sáng kiến II. PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu 7 7 1.1. Về tình hình học sinh lớp 5B 7 1.2. Số liệu thống kê 7 1.3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5B 8 2. Các giải pháp: 9 2.1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung về các bước giải các bài toán có lời văn 9 2.2. Tổ chức thực hiện 14 2.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải một số dạng toán có lời văn trong chương trình lớp 5 16 2.4. Kết quả 25 III. PHẦN KẾT LUẬN 26 1.Ý nghĩa của sáng kiến 26 2. Kiến nghị 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO STT Tên tài liệu Tác giả Nhà xuất bản Năm xuất bản 1 Sách giáo khoa Toán 5 Vũ Văn Dương Nguyễn Thị Bình NXBGD Hà Nội 2006 2 Giáo trình dạy học môn Toán ở Tiểu học Đỗ Trung Hiệu Đỗ Đình Hoan Vũ Dương Thụy Vũ Quốc Chung NXB Đại học Sư phạm 2006 3 Sách bài soạn Toán 5 Nguyễn Tuấn Lê Thu Huyền Nguyễn Thị Hương Đoàn Thị Lan NXBGD Hà Nội 2007 4 Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 5 Ngô Trần Ái Nguyễn Quý Thảo NXBGD Hà Nội 2007
Skkn Biện Pháp Rèn Kỹ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 PHẦN I
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. LỜI MỞ ĐẦU: Quý thầy cô giáo thân mến! Dạy học là nghề cao quí nhất trong các nghề cao quí, bởi dạy học là dạy người. Xã hội phát triển cần phải nâng cao trình độ dân trí. Yêu cầu đặt ra cho các nhà giáo dục hiện nay là đào tạo lớp người trong tương lai vừa có trình độ khoa học kĩ thuật vừa có đạo đức của người lao động mới, nghĩa là đào tạo lớp người phát triển toàn diện. Là một giáo viên, tôi muốn cùng đồng nghiệp trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, cùng đồng nghiệp góp chút công sức của mình vào sự nghiệp giáo dục để phần nào đó đáp ứng yêu cầu hiện nay của ngành. Tôi mong rằng qua những kinh nghiệm tôi trao đổi sau đây được đồng nghiệp quan tâm, chia sẻ để có được những giờ dạy hiệu quả. 2. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Môn toán ở trường Tiểu học bên cạnh mục tiêu trang bị cho học sinh những kiến thức toán học còn có nhiệm vụ hình thành cho học sinh các năng lực toán học, trong đó hoạt động giải toán được xem là hình thức chủ yếu để hình thành phẩm chất và năng lực toán học cho học sinh. Môn Toán có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn Toán là ”chìa khoá” mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
1
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước. Trong dạy – học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Có thể coi việc dạy – học giải toán là ”Hòn đá thử vàng” của dạy – học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Với các chức năng: Chức năng giáo dục, chức năng giáo dưỡng, chức năng phát triển và chức năng kiểm tra, việc dạy – học giải toán là điều kiện để thực hiện tốt các mục tiêu dạy – học toán. Tổ chức có hiệu quả việc dạy – học giải toán có vai trò quyết định đối với chất lượng dạy – học giải toán. Hoạt động giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Hình thành kỹ năng giải toán khó hơn nhiều so với kỹ năng tính vì các bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không đơn thuần là làm theo mẫu mà đòi hỏi người giải toán phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa của phép tính, có khả năng suy luận và phải làm tính thông thạo. Chương trình toán Tiểu học với 5 mạch kiến thức đan xen: – Số học và các phép tính; – Đại lượng và đo các đại lượng; – Các yếu tố hình học; – Một số yếu tố thống kê; – Tỉ lệ bản đồ và giải toán có lời văn. Trong 5 mạch kiến thức này được xây dựng theo hướng đồng tâm từ lớp 1 đến lớp 5 và được nâng dần mức độ khó ở các lớp cuối cấp. Đến lớp 5, Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
2
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 những kiến thức và kỹ năng toán học ở Tiểu học cần được bổ sung và hoàn thiện để chuẩn bị cho học sinh học bậc học trên. Việc dạy – học toán ở trường Tiểu học hiện nay nói chung, ở trường tôi đang dạy nói riêng kết quả còn thấp so với yêu cầu. Năng lực giải toán của học sinh còn nhiều hạn chế như: còn nhiều lúng túng khi tìm ra hướng giải, câu trả lời cho phép tính chưa chính xác, lựa chọn phép tính còn nhầm lẫn, tính toán chưa nhanh, chưa thành thạo, dẫn đến trình bày bài giải còn sai sót, kết quả học tập thấp. Điều này làm mất thời gian trong các giờ học và còn tạo cho học sinh tâm lý mỏi mệt, nhàm chán khi học toán. Những biểu hiện nói trên không phải vì học sinh không học được. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng trẻ sinh ra có thần kinh bình thường đều có khả năng học tập và phát triển. Như vậy, những hạn chế trong giải toán của học sinh là do các em mắc phải những sai lầm về kiến thức và kỹ năng toán học, mà giáo viên chưa phát hiện ra những sai lầm dẫn đến sai sót trong giải toán của học sinh để tìm ra nguyên nhân và đưa ra biện pháp giúp học sinh khắc phục những sai lầm, thiếu sót đó. Bất kỳ thiếu sót nào của học sinh cũng có thể làm cho các em học kém đi nếu như giáo viên không chú ý giúp các em tự nhận ra và sửa chữa, khắc phục những sai lầm, thiếu sót. Trong 5 mạch kiến thức toán Tiểu học thì toán có lời văn là dạng toán học sinh gặp nhiều khó khăn nhất, bộc lộ nhiều nhất những sai lầm, thiếu sót trong suy luận và ứng dụng thực tế kiến thức toán học. Từ những yêu cầu và nhận thức nói trên, để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, giúp học sinh hiểu sâu bản chất của vấn đề, học sinh có phương pháp suy luận logic thông qua cách trình bày lựa chọn phép tính đúng, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện, giúp các em hứng thú, say mê học toán, nâng cao chất lượng giờ dạy học toán, tôi chọn đề tài: ” Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5″.
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
3
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Người ta thường nói học vấn của con người giống như một tòa nhà, trong đó học vấn của Tiểu học đóng vai trò nền móng của tòa nhà đó. Nhiệm vụ của giáo dục là phải xây dựng cái móng thật vững chắc để cho tòa nhà đứng vững. Muốn làm nên sự vững chắc đó không thể không nói đến cái vững chắc của môn Toán, nhất là giải toán có lời văn ở Tiểu học là quan trọng và cần thiết vì: – Dạy toán ở Tiểu học nhằm giúp cho học sinh vận dụng những kiến thức toán học vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú, những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. – Việc hướng dẫn học sinh giải toán là hướng dẫn học sinh kết hợp học với hành, áp dụng kiến thức đã học vào đời sống thực tiễn, giúp học sinh hình thành và rèn luyện kỹ năng thực hành cần thiết, vận dụng kỹ năng đó vào cuộc sống. – Giải toán có lời văn góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật biện chứng. Việc giải toán với những đề tài thích hợp còn giới thiệu cho học sinh những thành tựu trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và các nước anh em, trong cuộc sống bảo vệ hòa bình của Leâ Thò Hoàng Trí Tröôøng tieåu hoïc Ba 4 Ñoäng
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 nhân dân thế giới. Đồng thời giải toán có lời văn còn góp phần giáo dục học sinh bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch. – Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán còn góp phần hình thành nên những đức tính cần thiết của con người lao động mới như: tinh thần vượt khó, ý chí vươn lên, đức tính cẩn thận, kiên trì, chu đáo, thói quen làm việc có kế hoạch, xem xét có căn cứ. Biết tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, có óc sáng tạo, óc độc lập suy nghĩ. Những cơ sở nói trên xuất phát từ: + Ý nghĩa, tầm quan trọng của môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng; + Mục tiêu, nhiệm vụ của môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng; + Nội dung chương trình môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng; + Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng; + Chuẩn kiến thức kỹ năng, cách kiểm tra đánh giá môn toán Tiểu học nói chung, môn toán lớp 5 nói riêng. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN: Giáo dục hiện nay đang thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. Vì vậy, việc dạy – học toán của giáo viên và học sinh hiện nay cũng được áp dụng phương pháp nêu vấn đề để rồi học sinh tự tìm hướng giải quyết. Song, học sinh lại rất lúng túng với phương pháp này vì các em không biết tìm “khóa” để “mở” bài toán (nhất là với các bài toán hợp). Nếu giáo viên giảng giải nhiều thì tiết học trở nên nặng nề, nhàm chán cũng đồng nghĩa với việc không đổi mới phương pháp, đồng thời tạo cho học sinh thói quen ỷ lại, trông chờ vào giáo viên, không phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh. Bản thân các em không biết trình bày bài giải thế nào hoặc không xác định được dạng toán điển hình để có Leâ Thò Hoàng Trí Tröôøng tieåu hoïc Ba 5 Ñoäng
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 những bước tính phù hợp. Đó cũng là những khó khăn khi dạy giải toán có lời văn ở Tiểu học. Với giáo viên, học sinh Trường Tiểu học Ba Động thì những khó khăn trên càng được nhân lên gấp bội vì Ba Động là một xã miền núi, đời sống người dân còn nhiều khó khăn. Cha mẹ còn mãi lo chuyện mưu sinh, ít quan tâm đến việc học của con mình nên chưa tạo điều kiện đúng mức cho việc đến trường của các em. Một số cha mẹ đi làm ăn ở xa gửi con cái cho ông bà ở nhà nên việc gặp gỡ giáo viên để trao đổi, phối hợp giáo dục các em thì hiếm khi. Bản thân học sinh tiếp thu chậm, đặc biệt với môn Toán thì các em ít hứng thú để học và còn nhiều hạn chế khi giải toán (nhất là giải toán có lời văn). Kết quả học tập của học sinh thấp so với yêu cầu. 3. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 3.1 Đối tượng – Giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Toán ở trường Tiểu học. – Học sinh Tiểu học, chủ yếu là học sinh lớp 5. 3.2 Mục đích Mục đích của việc nghiên cứu là để điều tra những sai lầm, hạn chế phổ biến của học sinh lớp 5 khi giải toán có lời văn. Phân tích các nguyên nhân mắc sai lầm, thiếu sót của học sinh, từ đó đề xuất các biện pháp sư phạm với các tình huống điển hình giúp học sinh sửa chữa sai lầm, thiếu sót, khắc phục hạn chế, để các em giải toán nhanh, thành thạo, hứng thú khi học toán, nâng cao kết quả học tập. Giúp giáo viên có những tiết dạy giải toán nhẹ nhàng mà hiệu quả. 3.3 Phương pháp nghiên cứu: – Phương pháp lý luận: Sưu tầm tài liệu, đọc tài liệu, tra cứu thông tin; – Phương pháp điều tra, phân tích, tổng hợp: Dự giờ đồng nghiệp, giảng dạy thực tế, phân tích kết quả học tập của học sinh; – Phương pháp thực nghiệm: Đưa biện pháp đề xuất vào giảng dạy trực tiếp tại lớp 5 Trường Tiểu học Ba Động. Leâ Thò Hoàng Trí 6 Ñoäng
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 4. PHẠM VI VÀ GIỚI HẠN: 4.1 Phạm vi: – Giáo viên và học sinh Trường Tiểu học Ba Động, đặc biệt là học sinh lớp 5 năm học 2011- 2012 và năm học 2012-2013 do tôi chủ nhiệm và giảng dạy. 4.2 Giới hạn: – Tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng việc dạy và học môn Toán nói chung, giải toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng; – Xây dựng một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 rèn kỹ năng giải toán có lời văn; – Những kinh nghiệm của bản thân trong công tác giảng dạy. 5. TIỂU KẾT: – Việc giải toán có lời văn giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh giáo viên có thể dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm hoặc những sai lầm, thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng, về tư duy toán học để có biện pháp giúp các em sửa chữa sai lầm, khắc phục thiếu sót nhằm nâng cao chất lượng học toán nói riêng, nâng cao kết quả học tập nói chung.
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
7
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 CHƯƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
8
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 Năm học
Số em chưa biết giải toán có lời văn Số lượng
Tỉ lệ %
2011-2012
27
8
29,6
9
33,3
10
37,1
2012-2013
25
8
32
9
36
8
32
* Qua thống kê phân loại cho thấy số em giải toán có lời văn chậm, lúng túng trong việc chọn câu lời giải hay khó khăn khi hình thành phép tính chiếm tỉ lệ khá cao, đặc biệt học sinh chưa biết giải toán có lời văn chiếm gần 40% số học sinh trong lớp. Do các nguyên nhân: – Tư duy của học sinh thiếu linh hoạt, nắm kiến thức bằng việc tiếp thu qua mẫu, nhiều khi không đầy đủ. Suy luận thường máy móc hay dựa vào tương tự, căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài. Học sinh có những kết luận thường không căn cứ; – Khi giải toán trong một chừng mực nào đó các em có thể giải được một bài toán theo hình thức “bắt chước”, theo mẫu đã có sẵn nhưng thường sai lầm khi tính toán. Các em giải bài tập bằng cách tái hiện có khi không đầy đủ những cách giải đã luyện tập máy móc nhiều lần nhưng khi hỏi về lý lẽ thì học sinh không nói được; – Học sinh sử dụng ngôn ngữ toán học (thuật ngữ – ký hiệu) còn lúng túng, nhiều chỗ còn lẫn lộn, khi giải toán các em thường vội vàng, hấp tấp không chịu đọc kỹ đề toán. Trong khi phân tích đề không chú ý đến những thuật ngữ toán học để tìm ra “chìa khóa” mở bài toán. Học sinh thường nhầm lẫn giữa câu hỏi và lời giải. Còn nhiều học sinh không xác định được đơn vị kèm theo kết quả tính; – Biểu hiện bề ngoài là thái độ thờ ơ, học tập thiếu tự tin, ngay khi giải bài toán đúng nhưng giáo viên hỏi cũng ngập ngừng không trả lời được. 2.2 Thực trạng việc dạy giải toán có lời văn hiện nay: Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
9
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 – Nhiều giáo viên việc tiếp cận đổi mới phương pháp trong giảng dạy còn hạn chế. Trong tiết dạy giáo viên chỉ quan tâm đến chất lượng mũi nhọn (chú ý vài em trong lớp) để có học sinh giỏi theo chỉ tiêu của nhà trường, lấy đó làm thành tích cá nhân mà quên nghĩ đến chất lượng đại trà của cả lớp. – Phần lớn giáo viên truyền thụ kiến thức một chiều, chuyển tải nội dung kiến thức một cách máy móc, áp đặt. Giáo viên chưa chú trọng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tham gia xây dựng bài mới để chủ động nắm bắt kiến thức vì sợ mất nhiều thời gian. Trong giải toán có lời văn, với những bài toán hợp có từ 2 bước giải trở lên, giáo viên thường quan tâm đến học sinh khá giỏi, mà quên nghĩ là học sinh yếu đang cần sự giúp đỡ của giáo viên. Khi chấm, chữa bài, giáo viên thường đánh giá chung chung bài làm đúng – sai gắn liền với các điểm số mà chưa chỉ rõ chỗ sai lầm, thiếu sót để học sinh khắc phục. Học sinh không hiểu bài, giáo viên nói nhiều, có khi còn làm thay cho học sinh. Giáo viên chưa chú ý hình thành các kỹ năng toán học như kỹ năng phân tích đề, tóm tắt đề bài, kỹ năng nhận diện dạng toán điển hình….cho học sinh. 2.3 Những tác động của phụ huynh: Trình độ dân trí thấp. Kinh tế còn khó khăn. Cha mẹ thiếu sự quan tâm đến việc học của con cái. Một số phụ huynh gặp khó khăn trong việc hướng dẫn con em mình học ở nhà. * Qua tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng nêu trên, tôi đề ra những giải pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy – học giải toán có lời văn ở lớp 5. 3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN 3.1 Nhận thức vấn đề 3.1.1 Quan niệm về bài toán: Bài toán là một nội dung có vấn đề, có tình huống cần giải quyết để ra kết quả. Khi giải quyết vấn đề đó ta phải vận dụng tri thức và kinh nghiệm sống để tìm ra lời giải. Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
10
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 – Loại bài: Có 3 loại: Toán đơn, toán hợp, toán áp dụng qui tắc – công thức. – Đề bài toán gồm 3 yếu tố : Dữ kiện, ẩn số và các điều kiện. 3.1.2 Qui trình giải toán có lời văn: Gồm 4 bước – Bước 1: Nghiên cứu đề, giải nghĩa từ lạ, câu lạ, tóm tắt đề. – Bước 2: Phân tích, tổng hợp, lập kế hoạch giải. – Bước 3: Giải và trình bày bài giải. – Bước 4: Đánh giá lại cách giải, thử lại, tìm cách giải khác. 3.1.3 Tư duy giải toán: gồm 5 thao tác tư duy – Tư duy 1: Xác định yêu cầu bài toán; – Tư duy 2: Phân tích đề toán theo trình tự nhất định; – Tư duy 3: Mô tả chính xác từng bước giải và cách thực hiện; – Tư duy 4: So sánh cách giải của loại bài toán này rút ra cách giải hợp lý nhất; – Tư duy 5: Khái quát hóa phương pháp để giải các bài toán cùng dạng. 3.1.4 Nắm chương trình – Nội dung dạy học giải toán có lời văn được sắp xếp hợp lý, đan xen giữa các mạch kiến thức: số học, hình học, đại lượng đo đại lượng. Chương trình được xây dựng theo định hướng chủ yếu giúp học sinh rèn phương pháp giải toán lớp 5 theo xu hướng giảm tính phức tạp và độ khó quá mức với học sinh đồng thời hạn chế các bài toán mang tính đánh đố hoặc áp dụng cách giải khác. Khi giải loại bài này giáo viên cần có cách giải linh hoạt, không áp đặt mà để học sinh lựa chọn cách giải; – Một số ít bài toán mang tính phát triển đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ độc lập để giải; – Nội dung các bài toán có tính cập nhật kiến thức gắn với đời sống xung quanh của học sinh, gắn liền với các tình huống cần giải quyết trong thực tiễn. 3.2 Biện pháp Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
11
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 3.2.1 Lựa chọn phương pháp phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Phương pháp dạy học đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định hiệu quả giờ dạy. Đổi mới phương pháp dạy học toán đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp phù hợp với đặc trưng của môn Toán. Tôi thường chọn các phương pháp sau: * Phương pháp trực quan Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, giúp trẻ phát triển tư duy trừu tượng đồng thời có tác dụng bổ sung hiểu biết cho các em. Với toán có lời văn ở lớp 5 giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình, sơ đồ để học sinh có cơ sở giải bài toán. * Phương pháp thực hành luyện tập Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở các tiết luyện tập để học sinh thực hành luyện tập kiến thức. Trong quá trình học sinh luyện tập giáo viên có thể phối hợp với phương pháp gợi mở – vấn đáp – giảng giải – minh họa… * Phương pháp gợi mở- vấn đáp Đây là phương pháp cần thiết vì nó phù hợp với học sinh Tiểu học. Phương pháp này rèn cho học sinh cách nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng em. * Phương pháp giảng giải minh họa Giáo viên chỉ sử dụng phương pháp này khi cần giảng giải minh họa. Giáo viên nên nói gọn, rõ và kết hợp với hoạt động thực hành của học sinh (Ví dụ bằng hình vẽ, mô hình, vật thật) để học sinh phối hợp nghe – nhìn và làm. * Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng Khi sử dụng phương pháp này giáo viên phải chọn độ dài các đoạn thẳng một cách thích hợp (có thể dùng màu riêng cho từng đoạn thẳng), để học sinh dễ dàng thấy được mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng, tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi giải toán. Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
12
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 3.2.2 Đa dạng hình thức dạy- học toán Việc phối hợp nhiều hình thức dạy – học toán trong một tiết dạy – học toán có tác dụng kích thích hứng thú học tập của học sinh. Giáo viên có thể chọn các hình thức dạy – học toán như: * Học cá nhân Với những bài toán đơn, vận dụng công thức, qui tắc hoặc thực hành kỹ năng tính toán giáo viên có thể áp dụng hình thức học cá nhân (trên phiếu hoặc trong vở bài tập). Ví dụ : Bài 3 trang 56 Toán 5 Sau khi học phép nhân một số thập phân với một số tự nhiên tôi tổ chức cho học sinh làm bài cá nhân để giải bài tập này. Một ô tô mỗi giờ đi được 42,6 km. Hỏi trong 4 giờ ô tô đó đi được bao nhiêu ki- lô- mét? * Học nhóm (nhóm đôi, nhóm 4) Với những bài toán hợp, có nhiều cách giải đòi hỏi học sinh phải tư duy logic, lựa chọn cách giải tôi có thể tổ chức cho học sinh làm bài theo nhóm để huy động vốn hiểu biết của nhiều em trong việc lựa chọn cách giải hay, dễ hiểu đồng thời giúp học sinh trong nhóm có tính tương tác lẫn nhau. Ví dụ: Bài 4, trang 62, toán 5 Mua 4 m vải phải trả 60.000 đồng. Hỏi mua 6,8 m vải cùng loại phải trả nhiều hơn bao nhiêu tiền? * Trò chơi, giải câu đố. Hình thức này thường sử dụng khi bồi dưỡng học sinh giỏi. Với những bài toán vui rèn tính toán nhanh, phát triển trí thông minh, cách giải toán linh hoạt, tôi tổ chức dạy học dưới dạng trò chơi, giải câu đố. Ví dụ: (Bài toán ghép hình) Hai hình chữ thập cắt đôi Trong nháy mắt ghép xong rồi hình vuông Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
13
Tröôøng tieåu hoïc Ba
14
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 Bài giải Chiều dài của hình chữ nhật là: 16,34 + 8,32 = 24,66 (m) Chu vi của hình chữ nhật là: (16,34 + 24,66) x 2 = 82 (m) Đáp số : 82 m + Các thành phần (16,34 và 8,32) trong phép tính giải (1) chính là dữ kiện của bài toán. Dữ kiện bài toán chi phối thành phần phép tính (1); + Dấu (+) trong phép tính (1) biểu thị mối quan hệ (hơn) hơn nhau một số đơn vị trong đầu bài. Do đó điều kiện trong bài toán chi phối cho việc chọn dấu phép tính (1); + Kết quả 24,66 m vừa là cái phải tìm trung gian trong bước giải (1) vừa là dữ kiện mới bổ sung của bước giải (2); + Số 16,34 trong bước giải (2) là dữ kiện của bài toán; + Số 2 và các dấu (+), (x) trong bước giải (2) thể hiện cách tính chu vi hình chữ nhật theo công thức. Có thể xem đây là điều kiện bắt buộc khi giải loại bài này; + Kết quả của phép tính (2) là cái phải tìm cuối cùng (hay ẩn số). Do đó có thể nêu lên một cách tóm tắt là: a) Các dữ kiện (kể cả dữ kiện mới bổ sung sau mỗi phép tính giải) của bài toán chi phối cho việc chọn (dấu) phép tính giải. b) Các điều kiện của bài toán chi phối cho việc chọn “dấu” phép tính giải. c) Những cái phải tìm là kết quả phép tính giải (tức là bao gồm những cái trung gian và cái phải tìm cuối cùng “ẩn số”). * Tóm lại: Việc giúp học sinh thấu hiểu 3 thành phần của bài toán sẽ giúp cho học sinh lựa chọn các phép tính để giải bài toán thuận tiện hơn.
Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
15
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 3.2.4 Hình thành thói quen tìm hiểu nghĩa các thuật ngữ, từ ngữ lạ có trong đề bài. Để lựa chọn được phép tính đúng, lời giải phù hợp thì học sinh phải thông hiểu đề, nghĩa là phải hiểu tất cả các từ ngữ có trong đề bài từ đó xác định 3 thành phần của bài toán được đề cập ở biện pháp trên. Nhưng trong thực tế, các đề toán có lời văn ở lớp 5 được nâng dần mức độ khó kèm theo sự xuất hiện của các từ ngữ lạ gắn với đời sống thực tiễn mà học sinh chưa được làm quen. Học sinh sẽ lờ đi những từ này mà chọn cách giải sai hoặc loay hoay tìm hiểu nghĩa từ làm chi phối sự tập trung giải toán. Với những trường hợp như vậy, giáo viên cần đặt câu hỏi vấn đáp giúp học sinh tìm hiểu nghĩa từ lạ trước khi tìm hiểu đề. Ví dụ: (Bài 2 trang 21 Toán 5) Một gia đình gồm 3 người (bố, mẹ và một con). Bình quân thu nhập hằng tháng là 800.000 đồng mỗi người. Nếu gia đình đó có thêm một con nữa mà tổng thu nhập của gia đình không thay đổi thì bình quân thu nhập hằng tháng của mỗi người bị giảm đi bao nhiêu tiền? – Hai cụm từ lạ học sinh khó hiểu ở đề bài này là: “Tổng thu nhập” và “Bình quân thu nhập”. * Giải nghĩa cụm từ: Tổng thu nhập – Tôi đặt câu hỏi cho học sinh: Em hiểu như thế nào là tổng thu nhập? – Tôi lấy ví dụ bằng cách yêu cầu học sinh nêu các khoản thu nhập của gia đình em trong một tháng. Sau khi học sinh nêu, tôi kết luận: Các khoản thu nhập đó gộp lại chính là tổng thu nhập của gia đình em trong 1 tháng. * Giải nghĩa cụm từ: Bình quân thu nhập – Tôi hỏi: Bình quân thu nhập là gì? – Tôi cung cấp nghĩa cho học sinh: Bình quân thu nhập là thu nhập trung bình của mỗi người trong gia đình được tính từ tổng thu nhập của gia đình. Công thức tính: Bình quân thu nhập = Tổng thu nhập : Tổng số người Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
16
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 Từ đó học sinh có thể tính được bình quân thu nhập của mỗi người khi gia đình có thêm một con và giải được bài toán. 3.2.5 Tổ chức thực hiện các bước giải toán, hình thành cho học sinh thói quen phân tích, tổng hợp khi giải toán. Vội vàng, hấp tấp, không chịu đọc kỹ bài toán, phân tích tổng hợp đề hời hợt thiếu kinh nghiệm cũng là một trong những nguyên nhân làm cho học sinh gặp khó khăn khi giải toán. Để khắc phục hạn chế này, giáo viên nên tổ chức cho học sinh giải bài toán theo 4 bước nhằm hình thành thói quen phân tích, tổng hợp đề khi giải toán, rèn kỹ năng giải toán cho học sinh. – Bước 1: Tìm hiểu kỹ đề toán, tìm hiểu nghĩa của từ, cụm từ quan trọng. Ở bước này giáo viên dùng 2 câu hỏi để dẫn dắt: + Bài toán cho biết gì? + Bài toán hỏi gì? – Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho với cái cần tìm. Tóm tắt bài toán (Tóm tắt đề bằng ngôn ngữ, ký hiệu ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc bằng lời). Lập kế hoạch giải bài toán (Trên cơ sở phân tích, thiết lập trình tự giải bài toán). – Bước 3: Thực hiện cách giải và trình bày bài giải theo kế hoạch đã lập để giải bài toán bằng các thao tác: + Thực hiện phép tính đã xác định. + Viết câu trả lời. + Viết đáp số. Sau mỗi bước giải cần kiểm tra phép tính giải đúng chưa. Viết câu lời giải phù hợp chưa. – Bước 4: Kiểm tra đối chiếu, tìm cách giải khác. + Giải xong bài toán phải thử xem đáp số tìm ra có thể trả lời câu hỏi của bài toán chưa? Có phù hợp với điều kiện của bài toán không? + Tìm cách giải khác cho bài toán. Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
17
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 Ví dụ: (Bài 3 trang 62 toán 5) Mua 5 kg đường phải trả 38.500 đồng. Hỏi mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn bao nhiêu tiền? – Bước 1: Tìm hiểu đề + Tôi gọi học sinh đọc đề toán. + Hỏi: Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết mua 5 kg đường phải trả 38.500 đồng). + Hỏi: Bài toán hỏi gì? (Bài toán hỏi mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn bao nhiêu tiền). + Hỏi: Giá tiền 1 kg đường không đổi. Khi giảm số ki-lô-gam đường cần mua thì số tiền mua đường sẽ thay đổi thế nào? (Số tiền mua đường cũng giảm). + Hỏi: Bài toán thuộc dạng toán nào? (Dạng toán quan hệ tỷ lệ). – Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho với cái cần tìm. Tóm tắt bài toán. Tóm tắt đề: 5 kg đường: 38.500 đồng 3,5 kg đường: Trả ít hơn 5 kg đường ….. đồng? + Hỏi: Muốn biết mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn mua 5 kg đường bao nhiêu tiền em phải biết gì? (Phải biết mua 3,5 kg đường phải trả bao nhiêu tiền). + Hỏi: Muốn biết mua 3,5 kg đường phải trả bao nhiêu tiền em phải biết gì? (Phải biết giá tiền của một ki-lô-gam đường). + Hỏi: Làm thế nào để tính được giá tiền của 1 kg đường? (Lấy giá tiền của 5 kg đường chia cho 5). + Em hãy nêu các bước giải bài toán. (Học sinh nêu) * Tính giá tiền 1 kg đường * Tính giá tiền 3,5 kg đường Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
18
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 * Tính số tiền mua 3,5 kg đường phải trả ít hơn mua 5 kg đường. – Bước 3: Giải bài toán Bài giải Giá tiền của 1 kg đường là: 38.500 : 5 = 7700 (đồng) Mua 3,5 kg đường phải trả số tiền là: 7.700 x 3,5 = 26.950 (đồng) Mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn mua 5kg đường số tiền là: 38.500 – 26.900 = 11.550 (đồng) Đáp số: 11.550 đồng – Bước 4: * Kiểm tra cách giải, kết quả. Đối chiếu xem đáp số có trả lời đúng câu hỏi của bài toán không. * Tìm cách giải khác Bài giải Giá tiền của 1 kg đường là: 38.500 : 5 = 7 700 (đồng) 3,5 kg đường ít hơn 5 kg đường là: 5 – 3,5 = 1,5 (kg) Mua 3,5 kg đường cùng loại phải trả ít hơn mua 5kg đường số tiền là: 7 700 x 1,5 = 11 550 (đồng) Đáp số: 11 550 đồng 3.2.6 Hình thành kỹ năng xác định các dạng toán điển hình. Đối với toán có lời văn ở lớp 5 chủ yếu là các bài toán hợp, giải bài toán hợp cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Các bài toán hợp trong chương trình toán lớp 5 bao gồm 2 nhóm chính sau: – Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống nhất cho các bài toán đó. Leâ Thò Hoàng Trí 19 Ñoäng
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 – Nhóm 2: Các bài toán điển hình là các bài toán mà trong quá trình giải có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Có các dạng toán điển hình sau: + Tìm số trung bình cộng; + Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó; + Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ của 2 số đó; + Tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ của 2 số đó; + Bài toán về quan hệ tỉ lệ. Các dạng toán khác: + Bài toán về tỉ số phần trăm; + Bài toán về chuyển động đều; + Bài toán có nội dung hình học (Chu vi, diện tích, thể tích). Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán nói trên để trong quá trình hướng dẫn học sinh giải toán, giáo viên giúp các em trước hết phải xác định được dạng toán đã học để dễ dàng chọn cách giải phù hợp cho bài toán. Ví dụ 1: (Bài 2 trang 19 toán 5) Bạn Hà mua 2 tá bút chì hết 30.000 đồng. Hỏi bạn Mai muốn mua 8 cái bút chì như thế thì phải trả người bán hàng bao nhiêu tiền? Hướng dẫn: + Hỏi: Bài toán cho biết gì? (Cho biết mua 2 tá bút chì hết 30.000 đồng). + Hỏi: Bài toán hỏi gì? (Hỏi mua 8 cái bút chì như thế thì phải trả bao nhiêu tiền?) + Hỏi: Giá tiền 1 bút chì không đổi, số bút chì cần mua giảm xuống thì số tiền phải trả thay đổi như thế nào? (Số tiền phải trả sẽ giảm xuống). + Hỏi: Bài toán thuộc dạng toán gì? (Dạng toán quan hệ tỷ lệ). + Hỏi: Có mấy cách giải bài toán về quan hệ tỷ lệ? Là những cách nào? (Có hai cách giải bài toán về quan hệ tỉ lệ, cách rút về đơn vị và cách tìm tỉ số). Leâ Thò Hoàng Trí Ñoäng
20
Tröôøng tieåu hoïc Ba
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Rèn Kỹ Năng Giải Bài Toán Có Lời Văn Liên Quan Đến Tỷ Số Cho Học Sinh Lớp 4
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
– Để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức theo xu thế toàn cầu hoá trong những năm đầu của thế kỷ XXI, chương trình giáo dục nói chung, chương trình toán tiểu học nói riêng, góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đó.
– Trong các môn học ở tiểu học, môn toán là công cụ để học tốt các môn học khác.Các kiến thức, kỹ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống. Nó góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo; nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng cho con người như cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền nếp và tác phong khoa học. Vì vậy môn toán là một môn học không thể thiếu trong tất cả các cấp học.
Người viết: Đỗ Thị Phương Chức vụ: Phó hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Trực Đại Trực Ninh - Nam Định Sáng kiến kinh nghiệm ( Bài viết được đăng trên trang 37 sách giáo dục và thư viện trường học số 24 Tập 4- 2008 nhà xuất bản giáo dục) Cho học sinh lớp 4 A/ Đặt vấn đề: I/ Lý do chọn đề tài: Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức theo xu thế toàn cầu hoá trong những năm đầu của thế kỷ XXI, chương trình giáo dục nói chung, chương trình toán tiểu học nói riêng, góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đó. Trong các môn học ở tiểu học, môn toán là công cụ để học tốt các môn học khác.Các kiến thức, kỹ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống. Nó góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo; nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng cho con người như cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền nếp và tác phong khoa học. Vì vậy môn toán là một môn học không thể thiếu trong tất cả các cấp học. Môn toán ở tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, có nhiều ứng dụng trong đời sống về các số tự nhiên, các số thập phân, phân số, các đại lượng cơ bản, và một số yếu tố hình học. Học sinh biết cách đọc, viết, so sánh các số tự nhiên, phân số, số thập phân. Biết thực hành tính nhẩm, tính viết về bốn phép tính với các số tự nhiên,số thập phân, số đo các đại lượng , các yếu tố hình học. Biết cách giải và trình bày bài giải với những bài toán có lời văn. - Qua khảo sát chất lượng học sinh lớp 4 C, trường tiểu học B Trực Đại, có kết quả như sau: * Tổng số: 30 em. * Loại giỏi :7 em = 23% * Loại khá : 10 em = 33% * Loại trung bình :10 em = 33% * Loại yếu: 3 em = 11% II/ Đối tượng vận dụng sáng kiến kinh nghiệm của bản thân: - Học sinh lớp 4c trường tiểu học B Trực Đại. B/ Giải quyết vấn đề: I/ Mục tiêu Biết tự tóm tắt bài toán bằng cách ghi ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ, hình vẽ Biết giải và trình bày bài giải các bài toán có nhiều bước tính, trong đó có dạng toán: + Tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó. + Tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó. II/ Chương trình sách giáo khoa toán 4. * Các tiết lý thuyết có: 3 tiết là Tiết 137:Giới thiệu tỷ số Tiết 138: Tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó. Tiết 142: tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó . * Các tiết thực hành có : 7 tiết.( tiết 139, 140 ,141 ,143 144 145 171 ) Đọc kỹ đề bài. Phân tích bài toán để thiết lập mối liên hệ các đại lượng có trong bài toán, xác định đâu là yếu tố đã cho đâu là yếu tố cần tìm. Vẽ sơ đồ đoạn thẳng và giải bài toán. 1, Tìm hiểu ý nghĩa thực tiễn của tỷ số ( Thông qua một số ví dụ sau) . VD 1 : Tỷ số giữa số bạn trai so với bạn gái là . Để giúp cho học sinh hiểu ý nghĩa thực tiễn của tỷ số tôi sẽ hướng dẫn cho học sinh hiểu tỷ số giữa số bạn trai so với số bạn gái là . Số bạn trai bằng số bạn gái có nghĩa là số bạn gái là 3 phần bằng nhau thì số bạn trai chiếm 2 phần như thế. Tổng số bạn trai và bạn gái là 5 phần. Tỷ số chính là phân số. Mẫu số là 3 tương ứng với số phần chỉ số bạn gái. Tử số là 2 tương ứng với số phần chỉ số bạn trai. VD 2: Tỷ số giữa số bạn gái và số bạn trai là Để giúp cho học sinh hiểu ý nghĩa thực tiễn của tỷ số , tôi sẽ hướng dẫn cho học sinh hiểu tỷ số giữa số bạn gái so với số bạn trai là . Số bạn gái bằng số bạn trai có nghĩa là số bạn trai là 2 phần bằng nhau thì số bạn gái là 3 phần như thế. Tỷ số chính là phân số . Mẫu số là 2 tương ứng với số phần chỉ số bạn trai. Tử số là 3 tương ứng với số phần chỉ số bạn gái. Tổng số bạn trai và bạn gái là 5 phần bằng nhau. *Như vậy: Tỷ số là một phân số biểu thị mối quan hệ giữa đại lượng này so với đại lượng kia. a, Dạng toán cơ bản:Tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó. Để giải được những bài toán ở dạng này, học sinh phải xác định được tổng hoặc hiệu của hai số và tỷ số của hai số. Tỷ số của hai số có thể là phân số, cũng có khi ở dạng lời văn. * Trường hợp 1: Tỷ số dưới dạng phân số. VD 1: Tỷ số dưới dạng phân số có tử số nhỏ hơn mẫu số. Bài toán: Hiệu của hai số là 85 .Tỷ số của hai số đó là . Tìm hai số đó? -HDHS: Đọc kỹ đề bài, xác định yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm. - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: + Bài toán cho biết gì ? ( Bài toán cho biết hiệu của hai số là 85 . Tỷ số của hai số đó là phân số ) + Bài toán hỏi gì? ( Tìm hai số đó) + Bài toán này thuộc dạng toán nào ? ( Bài toán thuộc dạng toán tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó ). + Hiệu của hai số phải tìm là bao nhiêu ? (Hiệu của hai số là 85 ). + Tỷ số của hai số đó là bao nhiêu ? (Tỷ số giữa hai số là ) . + Hai số phải tìm là hai số nào? ( Hai số phải tìm là số lớn và số bé ) - Hướng dẫn học sinh hiểu mối quan hệ giữa tỷ số với hai số phải tìm: Tỷ số của hai số là cho biết số nào tương ứng với mẫu số, số nào tương ứng với tử số? ( Tỷ số của hai số là cho biết mẫu số là 8 tương ứng với số lớn, tử số là 3 tương ứng với số bé.) - Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ : Khi vẽ sơ đồ lưu ý cho học sinh biểu thị các phần bằng nhau bằng những đoạn thẳng bằng nhau và biểu thị các dữ kiện của bài toán trên sơ đồ đoạn thẳng. - Hướng dẫn học sinh trình bày bài giải: Khi trình bày bài giải, các câu trả lời phải tương ứng với các phép tính. Các chữ số, các dấu của phép tính, tên đơn vị phải viết rõ ràng, đầy đủ. Bài giải. Vẽ sơ đồ và giải. ? ? 85 Theo sơ đồ : Hiệu số phần bằng nhau là: 8 - 3 = 5(phần). Số bé là: 85 : 5 x 3 = 51. Số lớn là: 51 + 85 = 136. Đáp số: Số bé : 51 Số lớn : 136 Nhận xét: Qua việc hướng dẫn học sinh giải bài toán ở ví dụ trên, tôi đã rèn cho học sinh những kỹ năng sau: Đọc kỹ đầu bài . Xác định yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm. Xác định hai số cần tìm. Xác định mối quan hệ giữa tỷ số với hai số cần tìm. Vẽ sơ đồ và trình bày bài giải. VD 2: Tỷ số dưới dạng phân số có tử số lớn hơn mẫu số. Bài toán: Hai kho chứa 125 tấn thóc,trong đó số thóc kho thứ nhất bằng số thóc kho thứ hai. Hỏi mỗi kho chứa bao nhiêu tấn thóc? -HDHS phân tích bài toán: + Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết tổng số thóc ở hai kho là 125 tấn) + Bài toán hỏi gì? (Bài toán hỏi mỗi kho chúa bao nhiêu tấn thóc) + Bài toán này thuộc dạng toán nào? ( Bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó). + Hai số phải tìm là hai số nào? (Là số thóc ở kho thứ nhất và số thóc ở kho thứ hai) - HDHS hiểu mối quan hệ giữa tỷ số với số thóc ở hai kho. Số thóc ở kho thứ nhất bằng số thóc ở kho thứ hai có nghĩa là: Số thóc ở kho thứ hai là 2 phần bằng nhau thì số thóc ở kho thứ nhất là 3 phần như thế. Mẫu số là 2 tương ứng với số thóc ở kho thứ hai. Tử số là 3 tương ứng với số thóc ở kho thứ nhất - HD HS vẽ sơ đồ và giải bài toán. Bài giải. 125 tấn ?tấn ?tấn Ta có sơ đồ: Kho 1: Kho 2: Theo sơ đồ : Tổng số phần bằng nhau là: 3 + 2 = 5 (phần). Số thóc ở kho thứ nhất là: 125 : 5 x 3 = 75 (tấn). Số thóc ở kho thứ hai là : 125 - 75 = 50 (tấn). Đáp số: Kho 1 : 75 tấn thóc. Kho 2 : 50 tấn thóc. * Nhận xét: Với bài toán có tỷ số dưới dạng phân số mà tử số lớn hơn mẫu số, tôi cũng rèn cho học sinh các kỹ năng giải như các bài toán có tỷ số là phân số mà tử số bé hơn mẫu số. * Trường hợp 2 :Tỷ số dưới dạng lời văn. Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán ở dạng này, tôi cũng rèn cho học sinh những kỹ năng đọc kỹ đề bài và phân tích bài toán như những bài ở trường hợp 1, song tôi phải lưu ý cho học sinh kỹ năng xác định tỷ số và mối quan hệ giữa tỷ số với các đại lượng đã cho trong bài toán. Tỷ số dưới dạng lời văn được phát biểu dưới nhiều hình thức khác nhau: VD 1:Tổng của hai số bằng 1080. Tìm hai số đó, biết rằng số thứ nhất gấp 7 lần số thứ hai.( Bài 3 trang 149 SGK 4) HD HS xác định tỷ số:số thứ nhất gấp 7 lần số thứ hai ,tôi đã hướng dẫn học sinh hiểu là: Số thứ nhất gấp 7 lần số thứ hai, hay số thứ hai bằng số thứ nhất. Hai số cần tìm là số thứ nhất và số thứ hai Số thứ nhất tương ứng với 7 phần bằng nhau, số thứ hai tương ứng với 1 phần như thế. Bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó. Tổng của hai số là 1080 . Tỷ số giữa hai số là Đến đây học sinh giải bài toán tương tự như cách giải bài toán ở trường hợp 1. * Lưu ý: ở ví dụ trên, tỷ số của hai số ẩn dưới dạng gấp một số lên nhiều lần. VD2:Tổng hai số là 72. Tìm hai số đó, biết rằng nếu số lớn giảm đi 5 lần thì được số bé. HD HS xác định tỷ số : Số lớn giảm đi 5 lần thì được số bé có nghĩa là số lớn gấp 5 lần số bé . Hay số bé bằng số lớn. Hai số cần tìm ở đây là số lớn và số bé. Số lớn tương ứng với 5 phần bằng nhau thì số bé tương ứng với 1 phần như thế. Bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó.Tổng của hai số là 72. Tỷ số giữa hai số là . Học sinh giải bài toán tương tự cách giải bài toán ở trường hợp 1. * Lưu ý : ở ví dụ trên , tỷ số của hai số ẩn dưới dạng giảm một số đi nhiều lần VD3 :Tổng số tuổi của Tuấn, bố Tuấn hiện nay là 48 tuổi. Biết tuổi của Tuấn được bao nhiêu ngày thì tuổi của bố được bấy nhiêu tuần. Tính tuổi của mỗi người.(Bài soạn toán 4) HD HS xác định tỷ số: 1 tuần có 7 ngày nên tuổi bố Tuấn gấp 7 lần tuổi Tuấn. Hay tuổi của Tuấn bằng tuổi của bố Tuấn. Hai số cần tìm ở đây là tuổi của Tuấn và tuổi của bố Tuấn. Tuổi của bố Tuấn tương ứng với 7 phần bằng nhau. Tuổi của Tuấn tương ứng với 1 phần như thế. Bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó. Tổng số tuổi của hai người là 48 tuổi . Tỷ số giữa số tuổi của hai người là . Đến đây học sinh giải bài toán tương tự cách giải bài toán ở truờng hợp 1. * Lưu ý: ở ví dụ trên tỷ số ẩn dưới dạng mối quan hệ giữa ngày và tuần. VD 4: Tổng của hai số là 1281. Thương của hai số là 6. Tìm hai số đó.( BT toán 4/40) HD HS xác định tỷ số: Thương của hai số chính là kết quả của phép chia số thứ nhất cho số thứ hai. Có nghĩa là số thứ nhất gấp 6 lần số thứ hai. Hay số thứ hai bằng số thứ nhất. Hai số cần tìm ở đây là số thứ nhất và số thứ hai. Số thứ nhất tương ứng với 6 phần bằng nhau , số thứ hai tương ứng với 1 phần như thế. Bài này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó. Tổng hai số là 1281. Tỷ số của hai số là . Đến đây học sinh giải bài toán tương tự như cách giải bài toán ở trường hợp 1. Lưu ý : ở ví dụ trên, tỷ số của hai số ẩn dưới dạng là thương của hai số. VD 5: Tổng của hai số là 407. Biết của số thứ nhất thì bằng của số thứ hai. Tìm hai số đó. HD HS xác định tỷ số: của số thứ nhất thì bằng của số thứ hai. Có nghĩa là số thứ nhất là 4 phần bằng nhau, thì số thứ hai là 7 phần như thế. Hay số thứ nhất bằng số thứ hai. Hai số cần tìm ở đây là số thứ nhất và số thứ hai Số thứ hai tương ứng với 7 phần bằng nhau, số thứ nhất tương ứng với 4 phần như thế. Bài này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số. Tổng của hai số là 407. Tỷ số giữa hai số là. Đến đây học sinh giải bài toán tương tự như ví dụ trên. * Lưu ý: ở ví dụ trên, tỷ số của hai số ẩn dưới dạng mẫu số của 2 phân số. + Tìm tổng hoặc hiệu số phần bằng nhau của hai số + Tìm giá trị của mỗi phần + Tìm mỗi số phải tìm. Khi hướng dẫn học sinh giải những bài toán ở dạng này, tôi rèn cho học sinh những kỹ năng đọc đề bài, phân tích bài toán, trình bày bài toán như các bài toán ở dạng trên, song tôi lưu ý cho học sinh cách xác định tỷ số và giải bài toán bằng phương pháp tỷ số cụ thể như sau: Bài toán 1: Một xe máy đi trong 3 giờ thì được 60 km. Hỏi xe đó đi trong 6 giờ được bao nhiêu km. ( Tốc độ đi không thay đổi). - Hướng dẫn học sinh xác định tỷ số: 6 giờ gấp 3 giờ mấy lần? ( 6 giờ gấp 3 giờ 2lần) Tốc độ đi không thay đổi, thời gian đi gấp 2 lần thì quãng đường đi được gấp mấy lần? ( Quãng đường đi được cũng gấp 2 lấn ) Hướng dẫn học sinh giải: Bài giải 6 giờ gấp 3 giờ số lần là: 6 : 3 = 2 ( lần) Số km người đó đi trong 6 giờ là: 60 x 2 = 120 ( km ) Đáp số : 120 km. Bài toán 2: Trong kỳ thi học sinh giỏi, người ta thấy rằng cứ 5 bạn thì có 2 bạn gái còn lại là bạn trai. Hỏi trong kỳ thi đó có bao nhiêu bạn gái? có bao nhiêu bạn trai? Biết rằng có 240 bạn trai. Hướng dẫn học sinh xác định tỷ số: Trong 5 bạn thì có 2 bạn gái còn mấy bạn trai? ( có 2 bạn gái và 3 bạn trai). Số bạn gái so với số bạn trai thì bằng bao nhiêu phần? (Số bạn gái bằng số bạn trai) Hướng dẫn học sinh giải: Bài giải: Số bạn trai có trong 5 bạn là: - 2 = 3 ( bạn) Số bạn gái có tong kỳ thi đó là: 240 :3 x 2 = 160 ( bạn) Đáp số: 160 bạn. Nhận xét: Khi hướng dẫn học sinh giải những bài toán trên, tôi đã hướng dẫn học sinh xác định tỷ số và áp dụng cách giải bài toán bằng phương pháp tỷ số để giải bài toán vừa ngắn gọn, vừa dễ hiểu đối với học sinh. IV/ Kết quả khảo sát sau khi đã áp dụng sáng kiến vào thực tế giảng dạy. *Lớp 4A : 30em * Lớp 4C : 30 em. - Loại giỏi:6 em = 20% - Loại giỏi : 9 em = 30% Loại khá: 10 em = 33% - Loại khá : 12 em = 40% Loại trung bình :11 em = 37% - Loại trung bình : 9 em = 30% Loại yếu : 3 em = 10% C/ Bài học kinh nghiệm: Đọc kỹ đầu bài. Xác định yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm, Vẽ sơ đồ tóm tắt bài toán. Lựa chọn cách giải bài toán. Rèn kỹ năng trình bày bài giải. - Cần rèn cho học sinh biết vận dụng linh hoạt ,sáng tạo các kiến thức đã học để tìm ra "chìa khoá"mà giải các bài toán một cách hợp lý và đạt kết quả cao nhất. Tôi xin trân trọng cảm ơn ! Trực Đại ngày 25 tháng 5 năm 2008. Người viết. Đỗ Thị Phương.Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Vài Kinh Nghiệm Rèn Luyện Kỹ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5 trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!