Cập nhật nội dung chi tiết về Những Bức Điện Lịch Sử Trong Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân Năm 1975. mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
..Trong suốt quá trình chiến đấu, khắp các mặt trận đều thường xuyên, liên tục nhận được những bức điện chỉ đạo rất nhanh nhạy, sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, góp phần cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ quyết tâm giành được thắng lợi cuối cùng.
10h45′ ngày 30/4/1975, xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng dinh Độc Lập cùng bộ đội tiến vào bắt sống Tổng thống ngụy Dương Văn Minh và toàn bộ nộicác chính quyền Sài Gòn, kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh
…Tây Nguyên, rồi Trị Thiên – Huế, Đà Nẵng thất thủ đã làm cho những tấm lá chắn của quân ngụy ở phía Bắc đã bị phá toang. Con đường chiến thắng của quân ta dẫn tới sào huyệt cuối cùng của chế độ Sài Gòn đang mở rộng.
Ngay trước khi giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng, chiều 29 tháng 3 năm 1975, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn gửi điện cho Trung ương Cục miền Nam: “…Tình hình biến chuyển mau lẹ. Cuộc cách mạng miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt… Trên thực tế, có thể coi chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu từ đây”.[1]
Sáng ngày 31 tháng 3 năm 1975, tại Hà Nội, Bộ Chính trị họp mở rộng. Đây là cuộc họp lịch sử bàn về đòn chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Không khí phấn khởi tràn ngập “Nhà con rồng” – (tức phòng họp của Bộ Tổng Tư lệnh xây dựng trên nền Điện Kính thiên trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long – BT), những nét mặt rạng rỡ, những ánh mắt sáng ngời, những cái bắt tay hứa hẹn…
Sau khi phân tích kỹ tình hình chiến trường, Hội nghị nhất trí nhận định những nhân tố mới đã xuất hiện rõ nét trong trận Đà Nẵng. Ta hơn hẳn địch cả về thế chiến lược lẫn lực lượng quân sự, chính trị. Dù Mỹ có tăng viện cũng không thể cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất. Phương thức tác chiến chiến lược của ta là phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược (chủ lực, nông thôn và thành thị), từ ngoài đánh vào, kết hợp với lực lượng tại chỗ từ trong đánh ra, lấy chủ lực từ ngoài đánh vào là quyết định, tập trung lực lượng tiến công địch, nhanh chóng lợi dụng thời cơ, dồn dập phát triển thắng lợi…
Sau hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn điện ngay vào chiến trường: “…Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp. Tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc”.[2]
Từ cuộc họp ngày 31 tháng 3 năm 1975, số phận của chế độ Sài Gòn đã được định đoạt. Quyết tâm của Bộ Chính trị cổ vũ mạnh mẽ nhiệt tình cách mạng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.
Ngày 7 tháng 4 năm 1975, căn cứ tin tức từ các mặt trận báo về, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị đang đổ vào chiến trường: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”.[3]
Đến ngày 14 tháng 4 năm 1975, thể theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch tấn công vào Sài Gòn – Gia Định và nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước, trong bức điện số 37-TK, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị đã đáp ứng kịp thời ý nguyện thiết tha và thiêng liêng ấy: “Đồng ý Chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”.[4]
Vậy là kể từ ngày 14 tháng 4 năm 1975, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm được vinh dự mang tên vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Trong suốt quá trình phát động cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, thực hiện truyền thống nhân nghĩa “lấy trí nhân thay cường bạo”, “đánh kẻ chạy đi, chứ không đánh người chạy lại” của dân tộc ta, nên Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương luôn nhắc nhở các cánh quân phải thực hiện đúng chế độ nhân đạo đối với tù binh và hàng binh của địch. Trong bức điện của Ban Bí thư, ngày 18 tháng 4 năm 1975 đã nhấn mạnh: “…Các loại binh lính sĩ quan của địch đã bỏ ngũ về nhà, về hưu, giải ngũ, trình diện, thì coi như dân thường… Những tên là lính và hạ sĩ quan nếu đã cải tạo tốt có quê ở vùng giải phóng thì cho về với gia đình”.[5] Cũng chính nhờ có chính sách nhân đạo và khoan dung này đã góp phần làm lung lạc, giảm sút tinh thần chiến đấu của quân ngụy.
Để chuẩn bị cho những trận đánh cuối cùng, từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn vận tải Trường Sơn vận chuyển vào Nam Bộ 115.000 quân và 90.000 tấn hàng (trong đó có 37.000 tấn vũ khí, 9.000 tấn xăng dầu). Riêng trong những ngày “chuẩn bị nước rút” từ ngày 5 đến ngày 26 tháng 4, vừa khai thác vừa vận chuyển, ta đã đưa vào chiến trường 10.100 tấn đạn, 2.300 tấn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, 2.600 tấn xăng dầu… Nhiều trạm sửa chữa ô tô, sửa chữa pháo và tăng được bố trí dọc đường, phục vụ cơ động của chiến dịch. Trong giai đoạn cuối cùng của chiến tranh, nổi lên tác dụng to lớn của hậu cần tại chỗ. Trục đường 14 từ Đồng Xoài đi Cây Gáo, Bến Bầu được gấp rút thi công. Các đoàn quân hậu cần ở các hướng củng cố và mở rộng tuyến đường chiến dịch với tổng chiều dài hơn 3.000 ki-lô-mét. Đặc biệt, trong những ngày hạ tuần tháng 4, hậu cần Miền đã đưa 10.000 cán bộ, chiến sĩ từ tuyến sau lên thành lập 8 tiểu đoàn cơ động, huy động gần 4.000 xe vận tải, hơn 600 thuyền máy, ca nô, hàng nghìn xe đạp thồ và hơn 60.000 dân công hỏa tuyến, lập 15 bệnh viện dã chiến, 17 đội điều trị với tổng số 10.000 giường, phục vụ bộ đội tiến công Sài Gòn – Gia Định.[6]
Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh khẩn trương hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến trên cơ sở phương án cũ đã được Trung ương Cục thông qua.
Thế trận tại chỗ đã bày xong. Ngày 22 tháng 4 năm 1975, lần cuối cùng, kế hoạch tiến công Sài Gòn – Gia Định được Đảng ủy và Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh thông qua và phê duyệt.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị họp, giữa lúc công việc chuẩn bị mọi mặt từ Bộ thống soái tối cao đến Bộ tư lệnh và các đơn vị ở chiến trường trọng điểm cơ bản đã hoàn thành. Năm mục tiêu quan trọng đã được Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh xác định là: sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, dinh Tổng thống ngụy quyền, Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát.
Sau khi kiểm tra lại lần cuối việc chuẩn bị cho trận đánh quyết định, cuộc họp kết thúc trong không khí náo nức, phấn khởi, quyết tâm, sẵn sàng đón tin chiến thắng.
Giờ phút quyết định đã điểm. Chiến trường Nam Bộ bùng lên như một cơn lốc.
Theo kế hoạch, 5 giờ 30 phút sáng 30 tháng 4 năm 1975, các hướng đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Đến 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng 390 đã húc tung cánh cổng chính của dinh Độc Lập – sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. 11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân đội Nhân dân Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh Độc Lập, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Cùng lúc này, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là Dương Văn Minh và toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn có mặt đầy đủ trong dinh Độc Lập đã bị quân giải phóng bắt sống. Tổng thống ngụy Dương Văn Minh đã phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trước quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Chiến tranh kết thúc.
Từ thủ đô Hà Nội, nhận được tin chiến thắng, thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã gửi ngay bức điện khen ngợi: “Toàn thể cán bộ, chiến sĩ tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào Sài Gòn – Gia Định thân mến. Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Sài Gòn – Gia Định, khen ngợi toàn thể cán bộ và chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên, thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội tinh nhuệ, dân quân tự vệ đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập chiến công chói lọi, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc ngụy quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn – Gia Định, đưa chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng. Toàn thể các đồng chí hãy nêu cao tinh thần quyết thắng cùng đồng bào tiếp tục tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu của Tổ quốc”.[7]
Vậy là sau 5 ngày chiến đấu liên tục (từ 26 đến 30/4/1975), chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành toàn thắng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thu về một mối.
Nếu tính từ ngày 4 tháng 3 năm 1975, khi quân ta bắt đầu nổ súng ở Playcu trong hoạt động nghi binh chiến lược giải phóng Tây Nguyên cho đến ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975, thì toàn bộ cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam đã diễn ra trong 55 ngày đêm, thật là một sự trùng hợp kỳ lạ với 55 năm ngày đêm của Chiến dịch Điện Biên Phủ cách đó 21 năm. Vậy là hai chiến dịch có hai cách đánh khác nhau. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, phương châm là “đánh chắc, tiến chắc”, thì trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, phương châm là “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Dù là hai cách đánh khác nhau nhưng đều đi đến thắng lợi cuối cùng đánh đổ hai thực dân đế quốc hùng mạnh nhất lúc bấy giờ là Pháp và Mỹ. Đó là minh chứng hùng hồn cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng; truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam; quyết không cam chịu làm nô lệ; quyết đánh đuổi giặc ngoại xâm giành độc lập tự do cho dân tộc.
Sự kiện chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã một lần nữa chứng minh chân lý bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.
Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975: Chủ Trương, Kế Hoạch, Diễn Biến, Kết Quả Và Ý Nghĩa 1.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975: Chủ trương, kế hoạch, diễn biến, kết quả và ý nghĩa
1. Chủ trương và kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam – Cuối năm 1974 đầu năm 1975, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có những thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Đảng đã họp Hội nghị Bộ chính trị (30/9 đến 7/10/1974) và Hội nghị Bộ chính trị mở rộng (18/12/1974 đến 8/1/1975) bàn về kế hoạch giải phóng miền Nam. – Qua hai Hội nghị, Bộ chính trị đã đưa ra và hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Cụ thể là trong năm 1975, tranh thủ thời cơ bất ngờ ta tấn công địch trên quy mô lớn, tạo điều kiện cho năm 1976 sẽ tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam. – Bên cạnh kế hoạch đó, Bộ chính trị còn nhận định rằng: “Cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ: “nếu thời cơ xuất hiện vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Đồng thời Bộ chính trị còn nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân,… giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
2. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 2.1. Chiến dịch Tây Nguyên (4/3 đến 24/3/75) – Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng đối với chiến trường miền Nam, nhưng do địch nhận định sai về hướng tiến quân của ta nên đã tập trung lực lượng cho việc bảo vệ Sài Gòn và Huế – Đà Nẵng; ở Tây Nguyên, chúng chỉ chốt giữ bằng một lực lượng mỏng, bố phòng sơ hở. – Phát hiện sơ hở đó, Hội nghị Bộ chính trị tháng 10/1974 đã quyết định chọn Tây Nguyên đánh trận mở đầu và là hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong năm 1975. – Ta tập trung binh lực lớn cùng với vũ khí, vật chất kĩ thuật mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Ngày 04/3/1975, ta đánh nghi binh địch ở Kontum và Plâycu để thu hút lực lượng của địch về phía Bắc Tây Nguyên làm cho việc phòng thủ Đắc Lắc và Buôn Ma Thuột ở phía nam Tây Nguyên trở nên sơ hở. – Ngày 10/3/1975, ta bất ngờ tấn công vào Buôn Ma Thuột làm cho địch không kịp trở tay. Sau 2 ngày chiến đấu, ta đã giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột. – Thất thủ Buôn Mê Thuột, ngày 12/3/1975, địch cố sức dồn quân tái chiếm lại vị trí chiến lược này nhưng đã bị ta đánh bại. – Ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh rút quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng ven biển Nam Trung Bộ, chờ cơ hội để tái chiếm lại Tây Nguyên. – Nắm được kế hoạch rút lui của địch, ta đã bố trí mai phục và truy kích địch trên đường rút lui làm cho chúng tan rã hòan tòan. – Đến ngày 24/3/1975, ta đã giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên với 60 vạn dân. – Chiến dịch Tây Nguyên đã làm rung chuyển cả chiến trường niềm Nam, làm suy sụp ý chí và tinh thần chiến đấu của Ngụy quân, Ngụy quyền và đồng thời cho thấy, thời cơ thuận lợi để giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
2.2. Chiến dịch Huế – Đà Nẵng ( 21/3 đến 3/4) – Diễn biến thuận lợi của chiến dịch Tây Nguyên cho thấy, thời cơ chiến lược đến nhanh và hết sức thuận lợi. Bộ chính trị đã kịp thời đưa ra kế hoạch giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam trong Năm 1975; trong đó, nhiệm vụ trước mắt là giải phóng Huế – Đà Nẵng. – Ngày 19/3 quân ta đã tấn công vào Quảng Trị, địch bỏ Quảng Trị rút về Huế và Đà Nẵng; sau đó, chúng có dấu hiệu bỏ Huế rút vào cố thủ ở Đà Nẵng. – Ngày 21/3/1975, quân ta thọc sâu vào căn cứ của địch, đồng thời chặn đường rút chạy của chúng (Quốc lộ 1, Cửa Thuận An và cửa Tư Hiền). – Ngày 25/3/1975, quân ta tiến thẳng vào cố đô Huế, ngày 26/3 thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên đã được giải phóng. – Cùng với chiến thắng ở Huế, ngày 24/3/1975, ta giải phóng Tam Kì, ngày 25/3/1975, giải phóng Quảng Ngãi, ngày 26/3/1975, giải phong Chu Lai. – Như vậy, đến ngày 26/3/1975, Đà Nẵng – thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ – ngụy – bị rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ở đây trở nên hoảng loạn và mất hết khả năng chiến đấu. Địch đã phải sử dụng máy bay để di tản cố vấn quân sự Mĩ và một bộ phận Ngụy quân ra khỏi thành phố Đà Nẵng. – Sáng 29/3/1975, từ cả ba phía Bắc, Tây và Nam, quân ta tiến vào Đà Nẵng và đến 3 giờ chiều thành phố Đà Nẵng được giải phóng hoàn toàn. – Cùng lúc với chiến thắng ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, sau khi giải phóng Tây Nguyên, lực lượng của ta đã tiến xuống giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung: Quy Nhơn, Phú Yên (01/4/1975), Khánh Hòa (03/4/1975) … – Như vậy, đến đầu tháng 4 năm 1975, ta đã giải phóng được một vùng rộng lớn và liên tục từ Quảng Trị đến Khánh Hòa.
2.3. Chiến dịch Hồ Chí Minh – Sau khi thất bại liên tiếp ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, địch lùi về lập tuyến phòng thủ từ xa (Phan Rang – Xuân Lộc – Tây Ninh) để bảo về Sài Gòn. – Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình, ngày 25/3/1975, Bộ chính trị đã họp và nhận định: “Thời cơ cách mạng đã đến,… phải tập trung lực lượng giải phóng miền Nam trước mùa mưa” và quyết định mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. – Ngày 08/4/1975, Bộ chỉ huy “Chiến dịch Hồ Chí Minh” đã được thành lập, với 5 quân đoàn và chuẩn bị ra quân với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng”, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. – Ngày 09/4/1975, quân ta bắt đầu tấn công vào Xuân Lộc – hệ thống phòng thủ quan trọng nhất bảo vệ Sài Gòn của địch. – Ngày 16/4/1975, quân ta phá tan tuyến phòng thủ của địch ở Phan Rang, tiếp đó là Bình Thuận, Bình Tuy. – Ngày 18/4/1975, Tổng thống Mĩ đã ra lệnh di tản toàn bộ người Mĩ ra khỏi Sài Gòn. – Ngày 21/4/1975, Xuân Lộc thất thủ, toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc đã tháo chạy, quân ta từ các hướng nhanh chóng áp sát Sài Gòn. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố từ chức cùng ngày (21/4/1975). – Ngày 26/4/1975, quân ta được lệnh tấn công Sài Gòn, tất cả 5 cánh quân từ các hướng nhanh chóng vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào Sài Gòn. – Đêm 28 rạng sáng ngày 29/4/1975, quân ta tấn công vào trung tâm thành phố, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch. – Đến 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975, quân ta tiến thẳng vào Dinh độc lập, bắt sống toàn bộ Ngụy quyền trung ương, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện vào lúc 11 giờ 30 phút cùng ngày. Chiến dịch Hồ Chí Mính kết thúc hoàn toàn thắng lợi. – Thừa thắng, nhân dân các tỉnh còn lại trên khắp miền Nam đã đồng loạt nổi dậy tấn công địch. Đến ngày 02/ 5/1975, miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng.
3. Kết quả, ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã đập tan bộ máy chính quyền tay sai của Mĩ, đánh bại hoàn toàn âm mưu xâm lược của Mĩ ở miền Nam Việt Nam qua 5 đời tổng thống với 4 chiến lược chiến tranh và kéo dài 21 năm.
3.2. Ý nghĩa lịch sử 3.2.1. Đối với dân tộc – Đây là một thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, giải phóng trọn vẹn miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN. – Kết thúc 21 năm chống Mĩ, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc tay sai, rửa sạch nỗi nhục mất nước hơn một thế kỉ của dân tộc. – Mở ra một kỉ nguyên mới của cách mạng Việt Nam: độc lập, thống nhất, đi lên XHCN. – Cùng với chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, đại thắng mùa xuân 1975 đã cắm thêm một mốc vinh quang chói lọi trong quá trình đi lên của lịch sử Việt Nam.3.2.2. Đối với quốc tế – Đây là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử 200 năm của Mĩ, tác động mạnh đến nội tình nước Mĩ và cục diện thế giới. – Đây là một thắng lợi có tính có tính chất thời đại, làm phá sản học thuyết Ni – xon, đảo lộn chiến lược toàn cầu của Mĩ và đồng minh, thu hẹp và làm yếu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. – Cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới chống chủ nghĩa đế quốc.
Phương Châm “Thần Tốc, Táo Bạo, Bất Ngờ, Chắc Thắng” Trong Tổng Tiến Công Mùa Xuân 1975
Thứ ba, 19 Tháng 4 2016 17:01
(LLCT) – Hội nghị Trung ương lần thứ 23 nhận định: “Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế sụp đổ đến nơi của nguỵ”(1). Bộ Chính trị khẳng định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể để chậm”(2).
Trung ương Đảng, Bộ Tổng tham mưu cùng quân và dân cả nước với tinh thần quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong một thời gian ngắn nhất, khi có thời cơ và điều kiện thuận lợi.
Sau chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Trị Thiên – Huế – Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, hàng chục tỉnh, thành phố, thị xã đã được giải phóng, gần một nửa binh lực quân nguỵ trên toàn miền Nam đã bị tiêu diệt và tan rã. Âm mưu co cụm chiến lược của chúng bị phá sản. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài Gòn bị hạn chế. Tình hình đó đã tạo ra một thời cơ chiến lược hết sức thuận lợi để bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Để bảo đảm thắng lợi nhanh chóng, Bộ Tổng tham mưu đã giải quyết hàng loạt vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề điều động và cơ động lực lượng cho chiến dịch. Ngoài những lực lượng có sẵn trên địa bàn, phải sử dụng một lực lượng cơ động từ xa. Quân đoàn 3 phát triển tiến công xuống đồng bằng Nam Trung Bộ rồi ngược lên Tây Nguyên hành quân thần tốc vào Nam Bộ. Quân đoàn 2 hành quân thần tốc gần một nghìn km trong 17 ngày đêm; tổ chức cho 2.376 xe các loại, trong đó có hơn 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100 pháo lớn từ 85 đến 155mm và hơn 100 khẩu pháo phòng không các loại vượt qua nhiều sông, suối, vừa hành quân vừa tiến hành đột phá tuyến phòng thủ của địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân. Đưa các lực lượng lớn kịp thời vào trận đánh một cách nhịp nhàng, đúng kế hoạch trong thời gian ngắn, bảo đảm bất ngờ, đó là điều kỳ diệu chưa từng thấy trong tổ chức và hành quân thần tốc, táo bạo của ta. Tập trung được lực lượng trong một thời gian nhanh chóng như vậy là một thành công đặc biệt, thể hiện một quyết tâm rất cao của quân và dân ta nhằm chớp thời cơ, thần tốc xốc tới giành thắng lợi quyết định.
Quá trình phát triển của cuộc tổng tiến công và nhất là thắng lợi mau chóng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã khiến cho Chính phủ và các nhà quân sự chiến lược Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn vô cùng sửng sốt, không sao hiểu nổi. Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, sau khi thoát thân ra được tàu Midway của Mỹ đã thốt lên rằng: ” Điều tôi khó hiểu nhất là cuộc chiến đấu đã kết thúc quá nhanh… Cách đây chưa đầy một tuần tôi còn yêu cầu chính quyền để cho tôi được tiếp tục chiến đấu… Mới một tuần trước đây thôi, tôi còn cho rằng không thể chấm dứt mau chóng như thế được”(3). Tại Oasinhtơn, khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, Kítxinhgiơ ngậm ngùi nói: “Tôi cứ tưởng rằng họ có thể thương lượng một sự đầu hàng, chứ đâu lại… tuyên bố đầu hàng. Tôi không ngờ sự việc diễn ra nhanh chóng đến mức đó”(4). Còn tướng Oétmolen thì thú nhận: “Đó là một đòn đau đớn… Tôi phải nói rằng quá trình sụp đổ đã nhanh hơn thực tế tình hình mà tôi đã nghĩ”(5).
Điều mà đối phương không hiểu đã là hiện thực. Thần tốc, mau lẹ là một phương châm giành thắng lợi của Đảng ta khi thời cơ đến trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xét toàn bộ cuộc chiến tranh, trên cơ sở đánh lâu dài, đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, Đảng ta luôn năng động, sáng tạo và nắm bắt thời cơ, tranh thủ thời gian giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là sự thực hiện đường lối và phương châm trên một cách đúng đắn, sáng tạo nhất. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cũng như các tướng lĩnh chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã theo sát tình hình, giải quyết thấu đáo các vấn đề chỉ đạo chiến lược, chọn đúng phương hướng, tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ, xác định đúng hình thức tác chiến và cách đánh linh hoạt, phát hiện thời cơ sau mỗi trận đánh, sau mỗi chiến dịch, để tổ chức chiến đấu, giành thắng lợi nhanh chóng và toàn diện. Một khi thời cơ xuất hiện thì yêu cầu thần tốc trở thành một nội dung trong phương châm chỉ đạo chiến lược, cũng như trong hành động quân sự.
Tuy nhiên, muốn đánh nhanh, thắng nhanh cũng cần phải táo bạo, bất ngờ. Táo bạo là một phương châm, là một yêu cầu quan trọng của hành động quân sự, là nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo tiến công. Trong lịch sử dân tộc, Lý Thường Kiệt đã hết sức táo bạo trong hành quân, khi ông thực hiện chiến lược “tiêu phát chế nhân”, đánh trước để chặn mũi nhọn của quân địch. Quang Trung – Nguyễn Huệ táo bạo, dám tiến công địch khi chúng còn rất mạnh nhưng thiếu phòng bị. Những đòn đánh tài tình, bất thần, táo bạo đó thường dẫn đến thắng lợi vang dội. Trong chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa (1789), Nguyễn Huệ đã táo bạo sử dụng lực lượng ít hơn để thực hiện đánh hiểm, điểm huyệt, đánh thọc sâu vào đại bản doanh, vào trung tâm đầu não quân Thanh, khiến chúng không kịp trở tay. Trong chiến dịch đó, Nguyễn Huệ đã đánh địch trên nhiều hướng, sử dụng những lực lượng tinh nhuệ thọc sâu, bất ngờ, chia cắt và tiêu diệt quân địch. Trong khi tướng giặc Tôn Sĩ Nghị đang để tâm ở Ngọc Hồi thì nghe tin đạo quân đô đốc Long đã từ phía Tây Nam hạ đồn Đống Đa và đang tiến thẳng về đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị, khiến hắn sợ mất mật, bủn rủn chân tay, rút kiếm chém xuống đất nói: “Sao mà thần đến vậy”; rồi “người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên, nhằm thẳng hướng Bắc mà chạy”. “Quân Thanh như bị sét đánh mang tai, nghe tin hoảng hồn, tan tác, tranh nhau bỏ chạy”(6).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cách đánh táo bạo, bất ngờ, mãnh liệt thể hiện rất rõ không chỉ ở tư tưởng chỉ đạo mà cả trong hành động quân sự tiến công của quân và dân ta. Chưa bao giờ ta sử dụng một lực lượng quân sự lớn mạnh như ở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tham gia Chiến dịch gồm 5 quân đoàn tinh nhuệ cùng các lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh còn có hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn thuộc các quân và binh chủng với nhiều vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại. Đây là một bước phát triển mới, một biểu hiện của cách đánh táo bạo của Bộ chỉ huy về việc sử dụng tập trung lực lượng trong một chiến dịch tiến công, nhằm tạo thế lực áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu não của chúng. Nếu như trước kia, trong chiến dịch Thăng Long, Nguyễn Huệ đã mạnh bạo sử dụng cùng một lúc hàng trăm voi chiến mang trên mình hoả hổ, hoả pháo khiến kỵ binh của quân Thanh vô cùng khiếp sợ, thì tại Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã sử dụng khoảng 400 xe tăng và xe bọc thép, hơn hai chục trung đoàn, lữ đoàn, tiểu đoàn pháo binh, tên lửa và cả lực lượng không quân tham gia chiến đấu, khiến quân địch hết sức bất ngờ.
Trong một thời gian ngắn ta đã thực hiện được một cuộc hội quân lớn như vậy, chứng tỏ sự quyết tâm, táo bạo và trình độ tổ chức, chỉ huy chiến dịch của Bộ thống soái tối cao và các tướng lĩnh của quân đội ta. Tập trung lực lượng, bất ngờ tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là một nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi. Nhưng vấn đề còn quan trọng hơn là sự độc đáo sáng tạo của cách đánh thần tốc, táo bạo và bất ngờ của nghệ thuật tiến công. Cả Quang Trung – Nguyễn Huệ khi tiến công Thăng Long và quân ta khi giải phóng Sài Gòn – Gia Định đều thực hiện thế trận tiến công toàn diện, trên nhiều mũi, nhiều hướng; thực hiện bao vây, chia cắt, thọc sâu nhanh chóng và mãnh liệt, tạo nên thế áp đảo; vừa tiêu diệt, làm tan rã, vừa bịt đường tháo chạy của địch.
Để thực hiện cách đánh “thần tốc, táo bạo và bất ngờ”, ta đã sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào các mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra khiến cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Cách đánh đó đã đưa lại hiệu quả chiến dịch lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.
Thần tốc và táo bạo luôn tạo ra những bất ngờ lớn đối với địch, đồng thời đánh bất ngờ thường giành thắng lợi mau chóng. Đánh địch bất ngờ là một nguyên tắc mà dân tộc ta đã vận dụng một cách sáng tạo. Trong điều kiện nước nhỏ, quân ít phải chống lại những kẻ thù xâm lược lớn, đông quân và tàn bạo thì vận dụng lối đánh bất ngờ “xuất kỳ bất ý” là hết sức cần thiết. Nhân tố bất ngờ được nhà Trần vận dụng thành công trong kháng chiến chống Mông – Nguyên, khi tập kích ở Đông Bộ Đầu giải phóng Thăng Long năm 1288, hoặc tiến công địch ở Bạch Đằng Giang năm 1288. Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ ” (Bình Ngô đại cáo). Lê Lợi cho rằng, nắm thời cơ đánh bất ngờ là phương châm hành động để “dùng sức một nửa mà công được gấp đôi”.
Đảng ta và quân, dân ta đã vận dụng và phát huy những kinh nghiệm đánh giặc của tổ tiên. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, điều kiện tương quan lực lượng đã khác trước. Quân ta đã vượt hẳn quân địch cả về thế và lực. Tuy nhiên, trong bất kỳ tình huống nào, yếu tố bất ngờ cũng là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh. Đòn “điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột, là một bất ngờ lớn đối với địch dẫn tới sự tan rã dây chuyền nhanh chóng của chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là một bất ngờ lớn hơn nữa mà địch tuy đã lường định nhưng vẫn không đoán được. Chúng đâu có ngờ ta sử dụng tới 5 quân đoàn và đơn vị tương đương tiến theo 5 hướng khác nhau trong đó có những mũi thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới. Chúng không ngờ ta đã huy động đến 400 xe tăng và xe bọc thép làm lực lượng đột kích, cùng 500 khẩu pháo lớn và hơn nửa triệu tấn vật chất kỹ thuật cho chiến dịch, chúng sửng sốt khi ta sử dụng cả lực lượng không quân. Và chúng càng không ngờ trận tiến công lại diễn ra và kết thúc nhanh chóng đến thế.
Như vậy, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng” là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động quân sự, là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh có tính truyền thống của dân tộc ta, đã trải qua một quá trình thừa kế, phát triển sáng tạo. Tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng là một trong những bài học quý của nghệ thuật quân sự Việt Nam thể hiện tiêu biểu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thắng lợi vĩ đại mùa Xuân 1975 chứng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, của các tướng lĩnh chỉ huy và sự nỗ lực phi thường của quân và dân cả nước. Chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4-1975 không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi nhất mà còn là nét nổi bật và đặc sắc nhất của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh.
Phát huy bài học “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để Quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trước tình hình mới. Muốn vậy, toàn quân cần quán triệt, thấu suốt quan điểm của Đảng về nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đồng thời, luôn có sự đổi mới và phát triển về nội dung và phương thức xây dựng Quân đội cho phù hợp trên nền tảng của tư duy mới về tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015
(1) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 (số 240-NQ/TW) ngày 25-12-1974.
(2) Hội nghị Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam (từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975).
(3) Lời thú nhận của vị tướng nguỵ Sài Gòn, Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1990.
(4) Tài liệu Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, t.1, TTXVN dịch, Hà Nội, 1971.
(5) Oétmolen tường trình của một quân nhân, Thư viện Quân đội dịch, Hà Nội, 1982.
(6) Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí , Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1984, tr.186.
Đại tá, PGS, TS Trần Nam Chuân
Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Phương Châm “Thần Tốc, Táo Bạo, Bất Ngờ, Chắc Thắng” Trong Tổng Tiến Công Mùa Xuân 1975
Thứ ba, 19 Tháng 4 2016 17:01
26549 Lượt xem
(LLCT) – Hội nghị Trung ương lần thứ 23 nhận định: “Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế sụp đổ đến nơi của nguỵ”(1). Bộ Chính trị khẳng định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo“thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể để chậm”(2).
Trung ương Đảng, Bộ Tổng tham mưu cùng quân và dân cả nước với tinh thần quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong một thời gian ngắn nhất, khi có thời cơ và điều kiện thuận lợi.
Sau chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Trị Thiên – Huế – Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, hàng chục tỉnh, thành phố, thị xã đã được giải phóng, gần một nửa binh lực quân nguỵ trên toàn miền Nam đã bị tiêu diệt và tan rã. Âm mưu co cụm chiến lược của chúng bị phá sản. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài Gòn bị hạn chế. Tình hình đó đã tạo ra một thời cơ chiến lược hết sức thuận lợi để bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Để bảo đảm thắng lợi nhanh chóng, Bộ Tổng tham mưu đã giải quyết hàng loạt vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề điều động và cơ động lực lượng cho chiến dịch. Ngoài những lực lượng có sẵn trên địa bàn, phải sử dụng một lực lượng cơ động từ xa. Quân đoàn 3 phát triển tiến công xuống đồng bằng Nam Trung Bộ rồi ngược lên Tây Nguyên hành quân thần tốc vào Nam Bộ. Quân đoàn 2 hành quân thần tốc gần một nghìn km trong 17 ngày đêm; tổ chức cho 2.376 xe các loại, trong đó có hơn 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100 pháo lớn từ 85 đến 155mm và hơn 100 khẩu pháo phòng không các loại vượt qua nhiều sông, suối, vừa hành quân vừa tiến hành đột phá tuyến phòng thủ của địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân. Đưa các lực lượng lớn kịp thời vào trận đánh một cách nhịp nhàng, đúng kế hoạch trong thời gian ngắn, bảo đảm bất ngờ, đó là điều kỳ diệu chưa từng thấy trong tổ chức và hành quân thần tốc, táo bạo của ta. Tập trung được lực lượng trong một thời gian nhanh chóng như vậy là một thành công đặc biệt, thể hiện một quyết tâm rất cao của quân và dân ta nhằm chớp thời cơ, thần tốc xốc tới giành thắng lợi quyết định.
Quá trình phát triển của cuộc tổng tiến công và nhất là thắng lợi mau chóng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã khiến cho Chính phủ và các nhà quân sự chiến lược Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn vô cùng sửng sốt, không sao hiểu nổi. Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, sau khi thoát thân ra được tàu Midway của Mỹ đã thốt lên rằng: “Điều tôi khó hiểu nhất là cuộc chiến đấu đã kết thúc quá nhanh… Cách đây chưa đầy một tuần tôi còn yêu cầu chính quyền để cho tôi được tiếp tục chiến đấu… Mới một tuần trước đây thôi, tôi còn cho rằng không thể chấm dứt mau chóng như thế được”(3). Tại Oasinhtơn, khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, Kítxinhgiơ ngậm ngùi nói: “Tôi cứ tưởng rằng họ có thể thương lượng một sự đầu hàng, chứ đâu lại… tuyên bố đầu hàng. Tôi không ngờ sự việc diễn ra nhanh chóng đến mức đó”(4). Còn tướng Oétmolen thì thú nhận: “Đó là một đòn đau đớn… Tôi phải nói rằng quá trình sụp đổ đã nhanh hơn thực tế tình hình mà tôi đã nghĩ”(5).
Điều mà đối phương không hiểu đã là hiện thực. Thần tốc, mau lẹ là một phương châm giành thắng lợi của Đảng ta khi thời cơ đến trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xét toàn bộ cuộc chiến tranh, trên cơ sở đánh lâu dài, đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, Đảng ta luôn năng động, sáng tạo và nắm bắt thời cơ, tranh thủ thời gian giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là sự thực hiện đường lối và phương châm trên một cách đúng đắn, sáng tạo nhất. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cũng như các tướng lĩnh chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã theo sát tình hình, giải quyết thấu đáo các vấn đề chỉ đạo chiến lược, chọn đúng phương hướng, tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ, xác định đúng hình thức tác chiến và cách đánh linh hoạt, phát hiện thời cơ sau mỗi trận đánh, sau mỗi chiến dịch, để tổ chức chiến đấu, giành thắng lợi nhanh chóng và toàn diện. Một khi thời cơ xuất hiện thì yêu cầu thần tốc trở thành một nội dung trong phương châm chỉ đạo chiến lược, cũng như trong hành động quân sự.
Tuy nhiên, muốn đánh nhanh, thắng nhanh cũng cần phải táo bạo, bất ngờ. Táo bạo là một phương châm, là một yêu cầu quan trọng của hành động quân sự, là nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo tiến công. Trong lịch sử dân tộc, Lý Thường Kiệt đã hết sức táo bạo trong hành quân, khi ông thực hiện chiến lược “tiêu phát chế nhân”, đánh trước để chặn mũi nhọn của quân địch. Quang Trung – Nguyễn Huệ táo bạo, dám tiến công địch khi chúng còn rất mạnh nhưng thiếu phòng bị. Những đòn đánh tài tình, bất thần, táo bạo đó thường dẫn đến thắng lợi vang dội. Trong chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa (1789), Nguyễn Huệ đã táo bạo sử dụng lực lượng ít hơn để thực hiện đánh hiểm, điểm huyệt, đánh thọc sâu vào đại bản doanh, vào trung tâm đầu não quân Thanh, khiến chúng không kịp trở tay. Trong chiến dịch đó, Nguyễn Huệ đã đánh địch trên nhiều hướng, sử dụng những lực lượng tinh nhuệ thọc sâu, bất ngờ, chia cắt và tiêu diệt quân địch. Trong khi tướng giặc Tôn Sĩ Nghị đang để tâm ở Ngọc Hồi thì nghe tin đạo quân đô đốc Long đã từ phía Tây Nam hạ đồn Đống Đa và đang tiến thẳng về đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị, khiến hắn sợ mất mật, bủn rủn chân tay, rút kiếm chém xuống đất nói: “Sao mà thần đến vậy”; rồi “người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên, nhằm thẳng hướng Bắc mà chạy”. “Quân Thanh như bị sét đánh mang tai, nghe tin hoảng hồn, tan tác, tranh nhau bỏ chạy”(6).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cách đánh táo bạo, bất ngờ, mãnh liệt thể hiện rất rõ không chỉ ở tư tưởng chỉ đạo mà cả trong hành động quân sự tiến công của quân và dân ta. Chưa bao giờ ta sử dụng một lực lượng quân sự lớn mạnh như ở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tham gia Chiến dịch gồm 5 quân đoàn tinh nhuệ cùng các lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh còn có hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn thuộc các quân và binh chủng với nhiều vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại. Đây là một bước phát triển mới, một biểu hiện của cách đánh táo bạo của Bộ chỉ huy về việc sử dụng tập trung lực lượng trong một chiến dịch tiến công, nhằm tạo thế lực áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu não của chúng. Nếu như trước kia, trong chiến dịch Thăng Long, Nguyễn Huệ đã mạnh bạo sử dụng cùng một lúc hàng trăm voi chiến mang trên mình hoả hổ, hoả pháo khiến kỵ binh của quân Thanh vô cùng khiếp sợ, thì tại Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã sử dụng khoảng 400 xe tăng và xe bọc thép, hơn hai chục trung đoàn, lữ đoàn, tiểu đoàn pháo binh, tên lửa và cả lực lượng không quân tham gia chiến đấu, khiến quân địch hết sức bất ngờ.
Trong một thời gian ngắn ta đã thực hiện được một cuộc hội quân lớn như vậy, chứng tỏ sự quyết tâm, táo bạo và trình độ tổ chức, chỉ huy chiến dịch của Bộ thống soái tối cao và các tướng lĩnh của quân đội ta. Tập trung lực lượng, bất ngờ tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là một nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi. Nhưng vấn đề còn quan trọng hơn là sự độc đáo sáng tạo của cách đánh thần tốc, táo bạo và bất ngờ của nghệ thuật tiến công. Cả Quang Trung – Nguyễn Huệ khi tiến công Thăng Long và quân ta khi giải phóng Sài Gòn – Gia Định đều thực hiện thế trận tiến công toàn diện, trên nhiều mũi, nhiều hướng; thực hiện bao vây, chia cắt, thọc sâu nhanh chóng và mãnh liệt, tạo nên thế áp đảo; vừa tiêu diệt, làm tan rã, vừa bịt đường tháo chạy của địch.
Để thực hiện cách đánh “thần tốc, táo bạo và bất ngờ”, ta đã sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào các mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra khiến cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Cách đánh đó đã đưa lại hiệu quả chiến dịch lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.
Thần tốc và táo bạo luôn tạo ra những bất ngờ lớn đối với địch, đồng thời đánh bất ngờ thường giành thắng lợi mau chóng. Đánh địch bất ngờ là một nguyên tắc mà dân tộc ta đã vận dụng một cách sáng tạo. Trong điều kiện nước nhỏ, quân ít phải chống lại những kẻ thù xâm lược lớn, đông quân và tàn bạo thì vận dụng lối đánh bất ngờ “xuất kỳ bất ý” là hết sức cần thiết. Nhân tố bất ngờ được nhà Trần vận dụng thành công trong kháng chiến chống Mông – Nguyên, khi tập kích ở Đông Bộ Đầu giải phóng Thăng Long năm 1288, hoặc tiến công địch ở Bạch Đằng Giang năm 1288. Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ” (Bình Ngô đại cáo). Lê Lợi cho rằng, nắm thời cơ đánh bất ngờ là phương châm hành động để “dùng sức một nửa mà công được gấp đôi”.
Đảng ta và quân, dân ta đã vận dụng và phát huy những kinh nghiệm đánh giặc của tổ tiên. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, điều kiện tương quan lực lượng đã khác trước. Quân ta đã vượt hẳn quân địch cả về thế và lực. Tuy nhiên, trong bất kỳ tình huống nào, yếu tố bất ngờ cũng là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh. Đòn “điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột, là một bất ngờ lớn đối với địch dẫn tới sự tan rã dây chuyền nhanh chóng của chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là một bất ngờ lớn hơn nữa mà địch tuy đã lường định nhưng vẫn không đoán được. Chúng đâu có ngờ ta sử dụng tới 5 quân đoàn và đơn vị tương đương tiến theo 5 hướng khác nhau trong đó có những mũi thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới. Chúng không ngờ ta đã huy động đến 400 xe tăng và xe bọc thép làm lực lượng đột kích, cùng 500 khẩu pháo lớn và hơn nửa triệu tấn vật chất kỹ thuật cho chiến dịch, chúng sửng sốt khi ta sử dụng cả lực lượng không quân. Và chúng càng không ngờ trận tiến công lại diễn ra và kết thúc nhanh chóng đến thế.
Như vậy, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng” là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động quân sự, là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh có tính truyền thống của dân tộc ta, đã trải qua một quá trình thừa kế, phát triển sáng tạo. Tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng là một trong những bài học quý của nghệ thuật quân sự Việt Nam thể hiện tiêu biểu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thắng lợi vĩ đại mùa Xuân 1975 chứng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, của các tướng lĩnh chỉ huy và sự nỗ lực phi thường của quân và dân cả nước. Chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4-1975 không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi nhất mà còn là nét nổi bật và đặc sắc nhất của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh.
Phát huy bài học “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để Quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trước tình hình mới. Muốn vậy, toàn quân cần quán triệt, thấu suốt quan điểm của Đảng về nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đồng thời, luôn có sự đổi mới và phát triển về nội dung và phương thức xây dựng Quân đội cho phù hợp trên nền tảng của tư duy mới về tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015
(1) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 (số 240-NQ/TW) ngày 25-12-1974.
(2) Hội nghị Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam (từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975).
(3) Lời thú nhận của vị tướng nguỵ Sài Gòn, Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1990.
(4) Tài liệu Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, t.1, TTXVN dịch, Hà Nội, 1971.
(5) Oétmolen tường trình của một quân nhân, Thư viện Quân đội dịch, Hà Nội, 1982.
(6) Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí , Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1984, tr.186.
Đại tá, PGS, TS Trần Nam Chuân
Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Bạn đang đọc nội dung bài viết Những Bức Điện Lịch Sử Trong Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân Năm 1975. trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!