Đề Xuất 3/2023 # Nobel Y Học 2022 Và Những Cơ Bản Về Giải Thưởng Nobel # Top 10 Like | Asianhubjobs.com

Đề Xuất 3/2023 # Nobel Y Học 2022 Và Những Thông Tin Cơ Bản Về Giải Thưởng Nobel # Top 10 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Nobel Y Học 2022 Và Những Cơ Bản Về Giải Thưởng Nobel mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Nobel Y học 2018 và những thông tin cơ bản về Giải thưởng Nobel

Chiều 1-10-2018 (theo giờ Việt Nam), Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tại Stockholm đã công bố tên đồng chủ nhân của giải Nobel Y học (tên chính thức là Nobel Y sinh) năm 2018 cho hai nhà khoa học James P Allison (người Mỹ) và Tasuku Honjo (người Nhật Bản). Đây là giải Nobel đầu tiên được công bố trong “mùa” Nobel 2018.

1. Vinh danh hai nhà khoa học người Mỹ và Nhật Bản Ủy ban giải Nobel Y học của Viện Karolinska (Thụy Điển) đã công bố giải thưởng nói trên lúc 16 giờ 30 phút (giờ Việt Nam). Hai  nhà khoa học này được vinh danh vì công trình nghiên cứu điều trị ung thư bằng việc ức chế miễn dịch âm tính, một cách tiếp cận mang tính cách mạng trong chữa trị bệnh ung thư. Ủy ban Nobel cho biết trong lúc ung thư đang cướp đi hàng triệu mạng sống mỗi năm và là một trong những thách thức sức khỏe nghiêm trọng nhất của nhân loại, công trình của hai nhà khoa học tìm ra cách để kích thích hệ thống miễn dịch để chống lại và tự đào thải tế bào ung thư, và mở ra nguyên lý mới cho việc điều trị bệnh này. Nhà miễn dịch học James P. Allison, 70 tuổi, người Mỹ, là Giám đốc Hội đồng cố vấn khoa học của Viện Nghiên cứu Ung thư (CRI), hiện làm việc tại trường Đại học Texas (Mỹ). Trước khi nhận giải Nobel cho công trình khám phá cách điều trị ung thư bằng ức chế miễn dịch âm tính, ông đã dành nhiều năm nghiên cứu về cơ chế phát triển và kích hoạt thụ thể tế bào T. Ông cũng là nhà khoa học đầu tiên tìm ra cách tách chuỗi protein phức tạp của kháng nguyên thụ thể tế bào T. Nhà khoa học Tasuku Honjo, 56 tuổi, là một nhà miễn dịch đang làm việc tại Đại học Kyoto, Nhật Bản. Ông nổi tiếng với việc xác định protein chết được lập trình, và được biết đến với nhận dạng phân tử của cytokine: KL-4 và IL-5 cũng như phát hiện ra Cytidine Deaminase. Cùng nhận giải Nobel Y học năm nay, hai nhà khoa học trên sẽ cùng chia sẻ giải thưởng trị giá 9 triệu kronor Thụy Điển (hơn 1 triệu USD). Từ năm 1901 đến 2017, đã có 108 giải Nobel Y Sinh được trao, trong số những người thắng giải có 12 phụ nữ. Chủ nhân trẻ tuổi nhất của giải Nobel Y học là ông Frederick Banting, nhà sinh lý học người Canada khám phá ra hormone tuyến tụy insulin điều trị bệnh tiểu đường. Ông nhận giải năm 1923, khi mới 32 tuổi. Chủ nhân lớn tuổi nhất của Giải Nobel Y học là bác sĩ Francis Peyton Rous, nhận giải năm 1966 khi ông 87 tuổi, với công trình nghiên cứu khám phá vai trò của các virus trong việc truyền một số loại bệnh ung thư. 2. Giải Nobel Y học trong 10 năm gần đây – Năm 2007: Ba nhà khoa học gồm Tiến sĩ Mairo R.Capecchi (người Mỹ gốc Italy), Tiến sĩ Oliver Smithies (người Mỹ) và Tiến sĩ Martin J.Evans (người Anh) cùng vinh dự được nhận giải thưởng Nobel Y học năm 2007 cho những khám phá mang tính đột phá về gien đã trở thành nền tảng của ngành y sinh học thế giới thế kỷ XXI. – Năm 2008: Ba nhà khoa học, trong đó, có hai nhà khoa học người Pháp là: bà Francoise Barre-Sinoussi và Luc Montagnier cùng vinh dự nhận giải thưởng Nobel Y học 2008 vì đã khám phá ra virus gây suy giảm hệ miễn dịch ở người, tức virus HIV, dẫn đến bệnh AIDS; và một nhà khoa học người Đức Harald zur Hausen (Haran du Hauxen), với nghiên cứu phát hiện nguyên nhân gây ra bệnh ung thư cổ tử cung ở  phụ nữ là do virus. – Năm 2009: Ba nhà khoa học người Mỹ gồm Elizabeth Blackburn, Carol Greider và Jack Szostak cùng trở thành các đồng chủ nhân giải thưởng Nobel Y học năm 2009, vì đã tìm ra cách thức các nhiễm sắc thể được sao chép một cách hoàn chỉnh trong quá trình phân chia của tế bào và được bảo vệ để không bị thoái hóa. – Năm 2010: Nhà y sinh học người Anh Robert Edward đoạt giải thưởng Nobel Y học năm 2010 vì có công lớn trong việc tìm ra kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), mang lại niềm vui làm cha-mẹ cho hàng triệu cặp vợ chồng hiếm muộn con. – Năm 2011: Bộ ba các nhà khoa học, gồm Bruce Beutler (người Mỹ), Jules Hoffmann (người Lucxembourg) và Ralph Steinman (người Canada) đã đoạt giải Nobel Y học 2011 cho những công trình nghiên cứu đột phá về hệ thống miễn dịch. – Năm 2012: Hai nhà khoa học người Anh John Gurdon và nhà khoa học người Nhật Bản Shinya Yamanaka đã đoạt giải Nobel Y học 2012 với công trình nghiên cứu mang tính đột phá về tế bào gốc. – Năm 2013: Hai nhà khoa học người Mỹ là James Rothman và Randy Schekman, cùng nhà khoa học người Đức Thomas Suedhof đã đoạt giải Nobel Y học 2013, vì phát hiện ra “cơ chế chuyển động của túi tiết – bộ máy vận chuyển chính trong các tế bào của cơ thể con người”. Phát hiện này rất hữu ích cho việc điều trị các bệnh thần kinh, tiểu đường và các rối loạn trong hệ miễn dịch. – Năm 2014: Ba nhà khoa học, gồm: nhà khoa học người Mỹ gốc Anh John O’Keefe và 2 vợ chồng nhà khoa học người Na Uy là May-Britt Moser và Evard Moser, đã đoạt giải Nobel Y học 2011 vì có công phát hiện ra các tế bào hình thành hệ thống định vị (GPS) bên trong bộ não. Với phát hiện này, các nhà khoa học đã hiểu được cơ chế dẫn đến chứng bệnh mất trí nhớ về không gian ở một số người. – Năm 2015: Ba nhà khoa học gồm William Campbell (người gốc Ireland), Satoshi Omura (người Nhật Bản) và Youyou Tu (người Trung Quốc) đã đoạt giải Nobel Y học 2015 với công trình nghiên cứu trong điều trị các bệnh do ký sinh trùng gây ra. Những nghiên cứu này đã mang lại cho loài người các công cụ quan trọng, nhằm đối phó với những dịch bệnh ảnh hưởng đến hàng triệu người mỗi năm”. – Năm 2016: Nhà khoa học người Nhật Bản Yoshinori Ohsumi đã đoạt giải Nobel Y học 2016 với công trình nghiên cứu các cơ chế phân tách và tái tạo các thành phần tế bào. Đây là thành tựu khám phá ra cơ chế tự thực, một quá trình cơ bản trong tế bào. – Năm 2017: Ba nhà khoa học người Mỹ là Jeffrey C. Hall, Michael Rosbash và Michael W. Young đoạt giải Nobel Y học 2017 vì những khám phá về cơ chế phân tử điều khiển nhịp sinh học ngày đêm. Khám phá về nhịp sinh học ngày đêm, đồng hồ sinh học này giúp chúng ta hiểu được bí ẩn tại sao con người cần ngủ và tại sao giấc ngủ lại diễn ra.

3. Những thông tin cơ bản về Giải thưởng Nobel 

             * Giải thưởng cao quý Nobel Giải Nobel,là một giải thưởng quốc tế được công bố hàng năm kể từ năm 1901 để vinh danh những cá nhân đạt thành tựu trong các lĩnh vực: Vật lý, Hoá học, Y học, Văn học và Hoà bình; riêng giải Nobel Hoà bình có thể được trao cho cá nhân hay một tổ chức. Đến năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển đưa thêm vào hệ thống giải một giải thưởng về lĩnh vực Kinh tế để tưởng nhớ nhà khoa học Alfred Nobel, người đã sáng lập ra giải Nobel. Một giải Nobel được trao cho tối đa 3 người. Nếu một giải thưởng bị từ chối hoặc không được chấp nhận, số tiền thưởng sẽ được trả vào quỹ. Lễ trao giải Nobel Y học, Vật lý, Hóa học, Văn học, Kinh tế được tiến hành tại Stockholm, Thụy Điển và lễ trao giải Nobel Hòa bình diễn ra tại Oslo, Na Uy.

* Quy trình bầu chọn Giải Nobel  Vào tháng 9 của năm trước khi trao giải, Ủy ban Nobel bí mật gửi mẫu đề cử cho 3.000 chuyên gia là những người từng được nhận giải Nobel, thành viên của đơn vị trao thưởng, các chuyên gia trong lĩnh vực Vật lý, Hóa học, Sinh học hoặc Y học, các giáo sư đầu ngành của nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới.  Tháng 2 của năm trao giải là thời hạn cuối cùng nộp hồ sơ. Ủy ban Nobel sẽ sàng lọc và lựa ra các ứng cử viên. Sau đó, hội đồng chọn ra khoảng từ 250-350 người lọt vào vòng tiếp.  Từ tháng 3 đến tháng 5, các chuyên gia đánh giá công trình của các ứng cử viên, sau đó Ủy ban Nobel tiến cử người đạt giải để Viện Hàn lâm chọn trên đa số phiếu bầu. Tháng 6 đến tháng 8, Ủy ban Nobel tập hợp các báo cáo có kèm theo danh sách tiến cử gửi cho Viện Hàn lâm. Bản báo cáo này được các thành viên hội đồng cùng ký tên. Vào đầu tháng 10, Viện Hàn lâm chọn ra người đoạt giải dựa trên đa số phiếu bầu. Đây là lựa chọn cuối cùng, sau đó chính thức công bố tên người đoạt giải.  Việc bỏ phiếu để chọn ra người đoạt giải Nobel được giữ bí mật đến giờ chót. Tuy nhiên, các thành viên của hội đồng bình chọn – bao gồm quan chức chính phủ, giáo sư đại học, nhà lập pháp và cả những người từng đoạt giải Nobel trước đây – có quyền tiết lộ cái tên hoặc tổ chức mà họ đã đề cử. Hàng năm, trước ngày 15-11, Ban tổ chức sẽ phải công bố danh sách những người được nhận phần thưởng cao quý này. – Giải Nobel Vật lý, Hóa học, Văn học và Kinh tế: Do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển quyết định.  – Giải Nobel Y học: Do Ủy ban Nobel của Viện Carolin (được thành lập năm 1810) quyết định. – Giải Nobel Hòa bình: Do Ủy ban Nobel thuộc Quốc hội Na Uy quyết định.

* Giá trị giải thưởng Nobel Chủ nhân của giải Nobel sẽ được trao giấy chứng nhận, huy chương vàng cùng phần thưởng tiền mặt. Số tiền phụ thuộc vào thu nhập của Hiệp hội Nobel. Ban đầu, hơn ba người có thể cùng nhận một giải Nobel. Tuy nhiên đến năm 1968, điều lệ của Tổ chức Nobel được sửa đổi hạn chế chỉ có 3 người đồng nhận một giải thưởng. Trong trường hợp đó, mỗi người có thể nhận 1/3 khoản tiền hoặc 2 người có thể chia nhau 50% số tiền thưởng trong khi người thứ ba nhận 50% còn lại. Nếu chưa được trao, số tiền thưởng sẽ được trả lại quỹ.  Năm 2017, Quỹ Nobel quyết định tăng tiền thưởng cho các hạng mục giải Nobel thêm 1 triệu krona (khoảng 120.000 USD) so với mùa giải đó trước, lên 9 triệu krona (khoảng 1,1 triệu USD). Đây là lần điều chỉnh giá trị tiền thưởng đầu tiên kể từ năm 2012 khi Quỹ Nobel quyết định giảm giá trị tiền thưởng 20% mỗi hạng mục, trong bối cảnh phải cân đối ngân sách trong dài hạn. 

* Từ chối giải thưởng Nobel Lý do dẫn tới hành động từ chối nhận giải Nobel có thể khác nhau, song chủ yếu là do áp lực từ bên ngoài. Nếu một giải thưởng bị từ chối hoặc không được chấp nhận thì số tiền thưởng sẽ được trả lại vào quỹ. Trong quá khứ, đã có trường hợp người giành giải từ chối nhận phần thưởng, vì vậy bên cạnh tên của người nhận giải trong danh sách những người giành giải Nobel sẽ có dòng chữ “từ chối nhận giải”. Ví dụ, vào năm 1935, nhà văn người Đức Carl von Ossietzky đã được trao giải Hoà bình khi ông đang bị phát xít cầm tù vì công bố các thông tin về việc Đức bí mật tái vũ trang. Adolf Hitler giận dữ và cấm Carl von Ossietzky nhận giải thưởng. Không chỉ vậy, Hitler còn cấm tất cả người Đức nhận giải Nobel nếu được trao trong thời gian cầm quyền của Hitler. Cũng có một số trường hợp, người được trao giải chỉ  nhận huy chương vàng cùng với bằng khen. Do bản chất, giải Nobel văn học và hoà bình thường gây nhiều tranh cãi so với các Giải Nobel khác. Cho tới nay, giải Nobel không được trao vào các năm 1940, 1941 và 1942. Giải Nobel văn học không được trao vào năm 1914, 1918 và 1943.

* Alfred Bernhard Nobel – người cống hiến trọn đời cho khoa học  Alfred Nobel sinh ngày 21-10-1833 tại Stockholm, Thụy Điển. Cha của ông là một kỹ sư kiêm nhà sáng chế và mẹ là con một gia đình giàu có. Tuy nhiên, đúng thời điểm ông được sinh ra thì công việc của cha ông gặp khó khăn và gia đình rơi vào tình trạng phá sản. Khi lên 9 tuổi, ông theo gia đình tới nước Nga lập nghiệp. Tại đây, ông và anh em trai được các gia sư dạy những bài học đầu tiên về lòng nhân đạo và khoa học tự nhiên. 17 tuổi, Nobel đã thông thạo các ngoại ngữ Anh, Nga, Pháp, Phần Lan và Đức. Sở thích chính của ông lúc bấy giờ là thơ và văn học Anh, cũng như vật lý và hóa học. Vào thời gian rỗi, ông viết một số tiểu thuyết, thơ và kịch. Vào năm 1860, Nobel bắt đầu tiến hành các thí nghiệm với nitroglycerin, một chất lỏng dễ nổ. Ông đã nghĩ tới giải quyết vấn đề an toàn và tìm cách kiểm soát hiệu quả quá trình nổ của nó trong khi ứng dụng vào các công trình xây dựng. Năm 1867, Nobel tìm ra quặng kixegur, trộn với nitroglycerine thành hỗn hợp “Dinamít” (Dynamite) có thể quản lý được mức độ nổ và an toàn trong bảo quản và vận chuyển.  Ngoài việc nghiên cứu ra thuốc nổ, Alfred Nobel còn nghiên cứu ra lụa nhân tạo, cao su và da nhân tạo… Đến cuối đời, Nobel nhận được tất cả 350 bằng sáng chế. Lợi nhuận từ kinh doanh của ông lên đến mức khổng lồ. Toàn bộ tài sản của ông năm 1895 khoảng 9 triệu USD. Đó là một con số mà không một nhà tư bản nào trên thế giới có thể sánh được ở thời điểm đó. Vào ngày 27-11-1895, Nobel ký di chúc cuối cùng tại Câu lạc bộ Thuỵ Điển-Na Uy ở Paris, Pháp. Ngày 10-12-1896, ông qua đời do mắc bệnh xuất huyết não tại nhà riêng ở San Remo, Italy. Trong di chúc, Nobel đã ghi rằng tài sản của ông sẽ được sử dụng làm phần thưởng cho những người mà nghiên cứu của họ có lợi nhất cho nhân loại. Năm 1900,  Hiệp hội Nobel được thành lập theo di chúc của ông. Đó là một tổ chức tư nhân quản lý các tài sản mà Nobel di chúc lại làm phần thưởng cho những cá nhân đoạt giải Nobel. Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau về cách xét giải, nhưng phần lớn những người được nhận giải thưởng Nobel đều là những người có cống hiến vĩ đại cho nhân loại. Cùng với giải, tấm lòng cao thượng và nhân đạo của người lập ra nó, Alfred Nobel sẽ mãi mãi được nhân loại ghi nhận./.

(P.V Tổng hợp)

Nguồn: TTXVN]

Nhịp Sinh Học Và Giải Nobel Y Học Năm 2022

*LTS: Tiến sĩ Benjamin L Smarr là một nhà thời sinh học trẻ đang làm việc tại Đại học California. Nếu bạn muốn biết giải Nobel Y học 2017 vừa được trao hồi đầu tuần cho nghiên cứu về đồng hồ sinh học có ý nghĩa thế nào với chúng ta, không ai khác ngoài Benjamin sẽ giải thích cho bạn hiểu. Đó chính là lĩnh vực khoa học mà anh đang nghiên cứu:

Thời đại của những chiếc đồng hồ sinh học đã bắt đầu.

Vài ngày trước (2/10), giải Nobel Y học năm 2017 đã được trao cho ba nhà khoa học – Jeffrey Hall, Michael Rosbash và Michael Young – ghi nhận công trình nghiên cứu của họ về chu kỳ sinh học hàng ngày trong cơ thể.

Nói một cách đơn giản, mục đích của lĩnh vực khoa học này là tập trung tìm hiểu cách thức vận hành của chiếc đồng hồ sinh học bên trong mỗi chúng ta.

Từng khoảnh khắc trong chu kỳ 24 giờ của chiếc đồng hồ này, chính là thứ quyết định khi nào bạn mệt mỏi cũng như cảm thấy đói. Nó cũng kiểm soát tất cả mọi thứ, từ hiện tượng jet lag khi đi máy bay đến thời điểm rụng trứng ở phụ nữ, khi nào bạn có nguy cơ gặp cơn đau tim và khoảng thời gian nào trong ngày chúng ta học tập hay làm việc hiệu suất nhất.

” Những khám phá của họ giải thích làm thế nào thực vật, động vật và con người thích ứng với nhịp điệu sinh học cũng như đồng bộ nó với chuyển động tự quay của Trái Đất“, hội đồng giải Nobel tuyên bố.

Giải Nobel Y học năm 2017 đã được trao cho ba nhà khoa học: Jeffrey Hall, Michael Rosbash và Michael Young ghi nhận sự phát hiện cơ chế phân tử kiểm soát nhịp sinh học

Là một nhà thời sinh học (chronobiologist – lĩnh vực nghiên cứu về chu kỳ sinh học của sinh vật), với tôi giải Nobel Y học năm nay là một lời tuyên bố cực kỳ thú vị.

Thường xuyên, tôi vẫn luôn phải cố gắng để giải thích cho người khác biết những gì mình đang làm, và lĩnh vực khoa học của tôi đang trên đà trỗi dậy như thế nào. Nhưng rồi mọi cố gắng ấy đều chỉ được đền đáp lại bằng một ánh mắt duy nhất, tựa như họ đang nghĩ ” Ok, anh ta bị điên rồi “.

Bạn biết đấy, các cụm từ như ” cấu trúc sinh học trong thời gian” và ” dao động mạng tế bào nội bộ” là thứ không dễ gì nói cho người khác hiểu được.

Nhịp sinh học là lời đáp lại của tiến hóa với chu trình tuần hoàn ngày-đêm trên Trái Đất.

Giống như bất cứ điều gì trong vũ trụ, cuộc sống của muôn loài lẽ ra cũng có thể bất ổn định. Vậy nên, nếu sự sống trên Trái Đất nên dựa dẫm vào một điều gì, thì thứ đáng tin cậy nhất chính là chu trình mọc rồi lặn của Mặt Trời mỗi ngày.

Có một quy luật thế này, nếu bạn đoán trước được những thay đổi sẽ diễn ra trong tương lai, bạn có thể chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với nó. Vậy nên, ngay từ khi những hình thức cơ bản nhất của sự sống được hình thành, chúng đã có thể thích nghi để dự đoán trong mỗi chu trình 24 giờ, khi nào thì môi trường sống của mình sáng và nóng hơn, và khi nào thì trời tối lại và trở nên lạnh đi.

Đối với bạn, điều này là hiển nhiên. Đi làm vào sáng sớm trước khi mặt trời lên đỉnh sẽ giúp bạn ít bị cháy nắng hơn. Nhưng đối với một sinh vật đơn bào, đoán được điều này có ý nghĩa sống còn khi nó sẽ tránh được nguy cơ bị giết chết bởi nhiệt và tia UV.

Đối với thực vật, nắm được chu kỳ ngày đêm sẽ giúp quang hợp hiệu quả hơn. Và đối với các loài thú, đó là cách chúng đoán khi nào là lúc kẻ thù hoặc con mồi của mình xuất hiện.

Tua nhanh qua vài thiên niên kỷ, cơ thể của chúng ta cũng mang trong mình những chiếc đồng hồ được di truyền gửi vào từng tế bào. Nhưng một trong những thách thức với sinh vật đa bào to lớn như chúng ta, đó là phải đảm bảo tất cả những chiếc đồng hồ này chạy đồng bộ.

Sự phối hợp này cho phép tuyến yên của phụ nữ và buồng trứng kết hợp được với nhau khi kích thích rụng trứng; tuyến tụy, ruột, và vùng dưới đồi kết nối khi tạo ra phản ứng đói giúp chúng ta sẵn sàng tiêu hóa; giấc ngủ được đặt giờ khi cơ của chúng ta sẵn sàng giảm nhiệt độ cho phép mọi thứ hồi phục, cũng như khi bộ não của chúng ta được giải phóng nhiều dung lượng nhất để bảo trì hoặc hình thành ký ức.

Nếu sự sống trên Trái Đất nên dựa dẫm vào một điều gì, thì thứ đáng tin cậy nhất chính là chu trình mọc rồi lặn của Mặt Trời mỗi ngày.

Vâng, đó là những thứ mà tự nhiên đã sắp đặt, dẫu vẫn còn rất lộn xộn. Vậy mà trong thế kỷ 21, chúng ta lại còn làm rối tung sự phối hợp nội bộ của cơ thể ấy, với những thứ như đèn điện, ánh sáng nhân tạo từ màn hình điện thoại, đồ ăn nhanh vào lúc 2 giờ sáng, làm việc ca kíp và lịch học quá sớm của các trường đại học.

Những lịch làm việc cứng kiểu này khiến mọi dòng chảy tự nhiên trong cơ thể chúng ta đảo lộn. Lẽ ra chúng ta phải ngủ và ăn uống theo vị trị của Mặt Trời ở trên bầu trời, nhưng làm việc theo lịch trình của thế giới hiện đại không đồng bộ với đó sẽ tàn phá cơ thể của chúng ta.

Sự gián đoạn đồng hồ sinh học có thể là nguyên nhân gây ra đại dịch béo phì ở Mỹ, tỷ lệ ung thư tăng cao, chứng tự kỷ, bệnh Alzheimer và các chứng mất trí nhớ khác. Và bởi vì mỗi một phần dù nhỏ trong cơ thể chúng ta đã được nhúng vào nhịp sinh học bẩm sinh trong mục đích đồng bộ hóa tất cả những chiếc đồng hồ, gián đoạn nhịp sinh học khiến mọi thứ trong cơ thể của chúng ta đều dễ dàng bị ảnh hưởng.

Dưới sự kiểm soát của nhịp sinh học

Để giúp bạn hiểu thêm về ý nghĩa của giải Nobel Y học 2017 và những gì mà nhịp sinh học ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta ngày nay, đây là một danh sách những gì được đặt dưới sự kiểm soát của nhịp sinh học:

Jet lag: Khi nhịp thời gian ngày-đêm của bạn đột ngột có sự thay đổi lớn vì hành trình dài trên máy bay, một số cơ quan trong cơ thể sẽ bắt nhịp với thay đổi nhanh hơn những cơ quan khác. Sẽ mất một khoảng thời gian để tự cơ thể bạn căn chỉnh lại. Lúc đó, đồng hồ sinh học của từng cơ quan khác nhau sẽ chạy ở các tốc độ khác nhau. Kết quả là, cơ thể không làm việc hiệu quả, bạn sẽ thấy mệt mỏi và bị suy nhược nhẹ.

Khả năng sinh sản: Khả năng tình dục của bạn có nhịp sinh học, và các kích thích tố giới tính của bạn cũng có. Ví dụ, trứng của phụ nữ rụng vào buổi sáng bởi nó được nhịp sinh học kiểm soát. Tôi được kể rằng một tài liệu lần đầu tiên ghi nhận khi thụ tinh ống nghiệm IVF được phát minh ra ở Pháp, các nhà khoa học thấy phụ nữ bay từ Hoa Kỳ tới có tỷ lệ IVF thành công thấp hơn. Hóa ra, jetlag đã làm rối tung chu trình rụng trứng của họ! Nhân tiện, làm ca kíp cũng có thể khiến điều này xảy ra.

Khả năng tập trung của tâm trí: Vào một thời điểm nào đó trong ngày, bạn sẽ có khả năng học tập tốt nhất. Khoảng thời gian này kéo dài vài tiếng nhưng thời điểm bắt đầu là đặc trưng ở mỗi người. Sự hình thành của các tế bào não mới, những khớp thần kinh mới, giấc ngủ, và sự chú ý đều được điều phối theo thời gian trong ngày. Do đó, giữ một thói quen sinh hoạt điều độ là cách giữ não bộ bạn sắc bén.

Một thực tế thú vị: Thời điểm bạn học một thứ gì đó, chẳng hạn 9 giờ sáng, nó sẽ được dán một tem thời gian. Và bạn cũng sẽ nhớ lại tốt nhất điều bạn đã học vào đúng thời điểm đó, 9 giờ sáng chẳng hạn. Vì vậy, tốt nhất bạn nên xếp thời gian học tập cố định trong ngày.

Dinh dưỡng: Nhịp sinh học không chỉ kiểm soát khi nào bạn thấy buồn ngủ, mà nó còn ấn định thời gian bạn thấy đói. Giống như cơ thể bạn hấp thụ thông tin khác nhau ở những thời điểm khác nhau trong ngày, điều tương tự cũng đúng với thức ăn. Ví dụ, vào ban đêm, thực phẩm dễ được dự trự thành chất béo hơn so với trong ngày.

Cơn đau tim: Trái tim của bạn có thể đối phó với mọi điều căng thẳng trong ngày. Nhưng sau tất cả, nó sẽ được hồi phục vào ban đêm. Khi cơ thể bạn bị sốc lên vào buổi sáng, trái tim bạn vẫn còn đang lạnh và trong trạng thái nghỉ ngơi. Cũng chính vì vậy mà hầu hết các cơn đau tim sẽ xảy ra vào buổi sáng sớm.

Hãy ra ngoài trời sáng và ngủ trong không gian tối và yên tĩnh ban đêm để giữ cho nhịp sinh học của bạn ổn định. Đó là một bí quyết trường thọ.

Giải Nobel Y Học: Những Thành Tựu Y Khoa Nổi Bật Nhất Thế Giới

Giải Nobel Y Sinh được trao cho 2 nhà khoa học đến từ Mỹ và Nhật Bản (theo Vnews)

Đã có tất cả 214 cá nhân được nhận giải thưởng danh giá này trong hơn 1 thế kỷ qua từ năm 1901-2017, trong đó có nhiều nghiên cứu đã làm thay đổi vĩnh viễn nền y học nhân loại.

Emil Adolf von Behring (1854-1917)

Emi Adolf von Behring là nhà Sinh lý học người Đức. Ông vinh dự là nhận giải thưởng Nobel đầu tiên năm 1901 nhờ liệu pháp huyết thanh điều trị 2 căn bệnh hiểm nghèo là bạch cầu và uốn ván. Phát hiện này của ông đã đặt nền móng cho sự phát triển y học trên toàn thế giới trong việc phòng chống các căn bệnh nguy hiểm này.

Tấm huy chương giải Nobel của ông hiện được trưng bày trong Bảo tàng Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế ( International Red Cross and Red Crescent Museum) tại Geneve, Thuỵ Sĩ.

Ivan Pavlov (1849-1936)

Pavlov tiến hành nghiên cứu chức năng dạ dày của loài chó vào những năm 1890. Ông quan sát sự tiết dịch vị của chúng, sau đó tính toán, phân tích dịch vị và những phản xạ của chó trong các điều kiện khác nhau. Qua 1 thời gian nghiên cứu, Pavlov nhận thấy chó thường tiết dịch vị khi phát hiện các tín hiệu thông báo sự xuất hiện của thức ăn. Từ đó, ông xây dựng lên một định luật mang tên “phản xạ có điều kiện”.

Camillo Golgi (1843-1926)

Camillo Golgi là nhà sinh vật học và bệnh lý học người Ý. Ông nổi tiếng với những tác phẩm nghiên cứu về hệ thống thần kinh trung ương.

Ông theo học ngành y khoa tại Đại học Pavia trong nhưng năm 1860-1868. Đươc truyền cảm hứng từ nhà nghiên cứu bệnh học Giulio Bizzozero, ông đã theo đuổi nghiên cứu trong hệ thần kinh. Phát hiện của ông về một kỹ thuật nhuộm mang tên “phản ứng đen” vào năm 1873 là một bước đột phá lớn trong khoa học thần kinh. Một số cấu trúc và hiện tượng trong giải phẫu học và sinh lý học đã được đặt theo tên ông, bao gồm cả bộ máy Golgi, cơ quan gân Golgi và phản xạ gân Golgi. Ông được công nhận là nhà thần kinh học và sinh vật học vĩ đại nhất trong thời đại của mình

Golgi và người đồng nghiệp là nhà sinh vật học người Tây Ban Nha Santiago Ramón y Cajal đã cùng nhau nhận giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học năm 1906 nhờ công trình nghiên cứu của họ về cấu trúc của hệ thần kinh.

Emil Theodor Kocher (1841-1917) Emil Theodor Kocher

Emil Theodor Kocher là một bác sĩ, nhà nghiên cứu y khoa người Thuỵ Sĩ. Ông đoạt giải Nobel Sinh lý học và Y khoa năm 1909 nhờ công trình nghiên cứu trong lĩnh vực sinh lý học, bệnh lý học và giải phẫu tuyến giáp.

Các ý tưởng mới của ông về tuyến giáp ban đầu đã gây ra nhiều tranh cãi. Nhưng sau đó, người ta đã phải thừa nhận những thành công của ông trong việc điều trị bệnh bướu giáp .

Ngoài lãnh vực chuyên môn là tuyến giáp, ông cũng đã xuất bản nhiều tác phẩm nghiên cứu về các đề tài y học khác, trong đó có Sự cầm máu ( hemostasis), các điều trị khử trùng, các bệnh nhiễm trùng do phẫu thuật, các vết thương do súng đạn, bệnh viêm xương tuỷ cấp tính ( acute osteomyelitis), lý thuyết về chứng thoát vị bị nghẹt ( strangulated hernia), và giải phẫu khoang bụng.

Willem Einthoven (1860-1927) Thiết bị điện tâm đồ “nguyên thuỷ” do Willem Einthoven phát minh

Willem Einthoven là một bác sĩ y khoa và nhà sinh lý học người Hà Lan. Phát minh về điện tâm đồ đã mang về cho ông giải thưởng Nobel y học năm 1923.

Bắt đầu từ năm 1901, Einthoven hoàn thành một loạt các nguyên mẫu của một điện kế dây ( string galvanometer). Dụng cụ này sử dụng sợi dây kim loại dẫn điện rất nhỏ dẫn qua giữa các nam châm điện cực mạnh. Khi dòng điện truyền qua sợi dây, từ trường sẽ làm cho sợi dây rung.

Thiết bị này làm tăng độ nhạy của điện kế tiêu chuẩn để đo được hoạt động điện của trái tim, dù có sự cách điện của thịt và xương.

Karl Landsteiner (1868-1943)

Karl Landsteinerlà một bác sĩ, nhà sinh học người Áo. Ông đã gây chú ý vào năm 1902 khi trình bày một hệ thống mới cho việc phân loại nhóm máu từ những phát hiện của ông về sự hiện diện của hiện tượng ngưng kết tố trong máu. Đến năm 1930 ông nhận Nobel trong lĩnh vực Sinh lý học và Y học nhờ những phát hiện này của mình.

Cùng với nhà khoa học Alexander S. Wiener, ông đã tìm ra yếu tố rhesus vào năm 1937.

Barbara McClintock (1902-1992) Barbara McClintock

Barbara McClintock là một nhà khoa học và di truyền học tế bào người Mỹ.

Bà đã thực hiện một nghiên cứu sâu rộng về di truyền học tế bào (cytogenetics) và thực vật dân tộc học (ethnobotany) trên các giống ngô từ Nam Mỹ. Nghiên cứu của McClintock đã được công nhận trong những năm 1960-1970, khi các nhà khoa học khác xác nhận cơ chế thay đổi di truyền và điều hoà di truyền mà bà đã chứng minh trong nghiên cứu ngô của mình.

Năm 1983, bà nhận giải Nobel trong lĩnh vực Sinh lý học và Y học với nghiên cứu về tác nhân di truyền. Cho tới nay, bà là người phụ nữ duy nhất nhận giải Nobel Y học mà không phải chia sẻ cùng người khác.

Tổng hợp

Lộ Diện Chủ Nhân Giải Nobel Y Học 2022

Giải thưởng danh giá năm nay được trao cho 3 nhà khoa học Harvey J. Alter, Michael Houghton và Charles M. Rice vì những phát hiện tinh tế dẫn đến việc xác định một loại virus mới, virus Viêm gan C.

Ông Harvey J. Alter là nhà khoa học người Mỹ tại Viện Y tế Quốc gia (NIH), ông Michael Houghton là nhà khoa học người Anh làm việc tại Trường ĐH Alberta (Canada). Người thứ 3 là Charles M. Rice, chuyên gia về virus học người Mỹ tại Trường ĐH Rockefeller.

Theo Ủy ban Nobel, cả 3 được vinh danh vì đóng góp mang tính quyết định trong cuộc chiến chống lại bệnh viêm gan lây truyền qua đường máu, một vấn đề sức khỏe toàn cầu gây ra xơ gan và ung thư gan giai đoạn cuối.

Các nghiên cứu về bệnh viêm gan do truyền máu của nhà khoa học Harvey J. Alter đã chứng minh rằng một loại virus không xác định là nguyên nhân phổ biến của bệnh viêm gan mãn tính. Trong khi đó, ông Michael Houghton đã sử dụng chiến lược chưa được thử nghiệm để phân lập bộ gien của virus viêm gan C. Nhà khoa học Charles M. Rice đã cung cấp bằng chứng cuối cùng cho thấy chỉ riêng virus viêm gan C có thể gây ra bệnh viêm gan.

Phát hiện của các nhà khoa học giành giải Nobel Y học năm 2020 giúp làm rõ đươc nguyên nhân những ca bệnh viêm gan mạn tính, mở ra khả năng xét nghiệm máu và phát triển thuốc điều trị giúp cứu sống hàng triệu người.

Thông báo của Ủy ban Nobel cho rằng nhờ những phát hiện của các nhà khoa học, các bộ xét nghiệm máu độ nhạy cao tìm virus đã được phổ biến, góp phần đẩy lùi viêm gan ở nhiều nơi trên thế giới, cải thiện đáng kể sức khỏe toàn cầu. Phát hiện của 3 nhà khoa học cũng giúp phát triển nhanh chóng các loại thuốc kháng virus chống viêm gan C. Lần đầu tiên trong lịch sử, căn bệnh này có thể được chữa khỏi, làm tăng hy vọng xóa sổ viêm gan C trên thế giới.

Giải thưởng Nobel y học mang ý nghĩa đặc biệt trong năm nay do sự bùng phát của đại dịch Covid-19, nêu bật tầm quan trọng của nghiên cứu y học đối với các xã hội và nền kinh tế trên toàn thế giới.

Giải thưởng danh giá đi kèm với huy chương vàng và số tiền thưởng trị giá 10 triệu kronor Thụy Điển (hơn 1,1 triệu USD).

Theo sau giải Nobel Y sinh, giải Nobel Vật lý và Nobel Hóa học sẽ được trao lần lượt trong các ngày 6 và 7-10. Tiếp đến là giải Nobel văn chương và Nobel Hòa Bình sẽ được công bố trong ngày 8 và 9-10. Cuối cùng là giải Nobel Kinh tế sẽ được trao vào ngày 12-10.

Xuân Mai (Theo AP)

Bạn đang đọc nội dung bài viết Nobel Y Học 2022 Và Những Cơ Bản Về Giải Thưởng Nobel trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!