Cập nhật nội dung chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 2 Giải Toán Có Lời Văn mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở Tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Trong nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy việc dạy giải toán có lời văn trong chương trình toán bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng là hết sức cần thiết, ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn hạn chế về mặt suy luận, phân tích nên việc dạy giải toán có lời văn ở tiểu học sẽ góp phần giúp cho học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú và hình thành khả năng giải toan có lời văn, đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt môn toán sau này ở các cấp học trên. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: – Nghiên cứu sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ năng để nắm được chương trình của toán lớp 2. Trên cơ sở lí luận thực tiễn phân tích những ưu điểm, tồn tại để tìm ra những biện pháp, giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy mạch kiến thức giải toán có lời văn. – Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh khi giải toán có lời văn. – Đề xuất biện pháp khắc phục những sai lầm cho học sinh khi giải toán có lời văn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: – Phương pháp dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn lớp 2. – Học sinh lớp 2 trường tiểu học Xuân Lập – Thọ Xuân. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: – Phương pháp điều tra: + Thông qua việc dự giờ của giáo viên cùng khối trong đơn vị và dự giờ môn toán của giáo viên các khối khác để học tập, rút king nghiệm cho bản thân. + Căn cứ vào kết quả làm bài của học sinh ở các tiết dạy trên lớp và điểm kiếm tra định kì cuối kì 1, cuối kì 2 giáo viên đánh giá, đối chiếu số liệu học sinh hoàn thành mục tiêu môn học để có biện pháp phù hợp, kịp thời với từng đối tượng học sinh. B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán, đáp ứng theo yêu cầu của chương trình, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em rất nhiều việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Ta thấy rằng, giải toán ở Tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lôgíc. Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc. Thực tế tôi thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số. Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?… Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 1. Thực trạng chung: – Đa số các đồng chí giáo viên đã xác định được việc dạy “giải toán có lời văn” trong chương trình môn toán lớp 2 là rất quan trọng nên các đồng chí chuẩn bị bài rất chu đáo trước khi lên lớp, nhiều đồng chí đã chịu khó đầu tư, tìm tòi nghiên cứu để giờ dạy đạt kết quả cao. – Học sinh được trang bị kiến thức ngay từ cuối năm lớp 1 nên cũng có nhiều thuận lợi cho việc giải toán ở lớp 2. – Đa số học sinh có ý thức học tập tốt, có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập phục vụ cho việc học tập của các em. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số lỗi mà giáo viên và học sinh còn mắc phải như: 2. Thực trạng đối với giáo viên. – Khi dạy giải toán cho học sinh, giáo viên mới chỉ cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản mà sách giáo khoa đã biên soạn, giáo viên chưa chú trọng việc ra bài tập cho học sinh làm thêm, phụ đạo thêm để học sinh được luyện tập nhiều, chưa dành thời gian để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành. – Giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi mà chỉ chú ý đến việc cho học sinh ghi nhớ công thức và giải quyết một cách máy móc nên hiệu quả giảng dạy chưa cao. – Nhiều giáo viên trong giờ dạy chưa chú trọng đến cả ba đối tượng, số học sinh nắm bắt kiến thức không đồng đều, chất lượng đại trà chưa cao, nên chưa phát huy được khả năng phát triển toán học của các em. 3. Thực trạng đối với học sinh. Khi giải toán đơn học sinh còn giải toán một cách thụ động, máy móc theo yêu cầu của giáo viên, học sinh chỉ biết giải những bài toán cụ thể chưa biết linh hoạt so sánh và liên hệ với các bài toán khác. – Khi gặp những bài toán có dữ liệu “không tường minh” học sinh thường hay lúng túng do chưa hiểu rõ đề bài và chưa có kĩ năng phân tích đề toán. – Nhiều học sinh đọc còn chưa thông nên việc đọc kĩ đề toán là một việc khó khăn nên dẫn đến giải bài toán sai. – Nhiều em lựa chọn lời giải chưa hay, chưa phù hợp với nội dung bài toán. – Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp 4. Kết quả của thực trạng trên: Qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm của 34 em học sinh lớp 2 tôi thu được kết quả như sau: Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 4 11,7 8 23,5 10 29,5 12 35,3 Qua kết quả điều tra thực trạng trên tôi nhận thấy đây là kiến thức trọng tâm của chương trình toán 2 mà còn rất nhiều học sinh nắm chưa vững. Đây là vấn đề cần phải khắc phục ngay để giúp các em có đầy đủ kiến thức chuẩn bị cho việc học toán ở các lớp trên và giúp các em vận dụng vào tính toán trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy tôi đã tìm ra cách khắc phục thực tế trên trong việc dạy giải toán cho học sinh lớp 2 như sau: III. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN: 1. Giải pháp chung: Giải pháp 1: Nắm vững nội dung chương trình toán 2. Giải pháp 2: Giúp học sinh có kĩ năng giải tốt một số dạng toán có lời văn trong chương trình toán 2. Giải pháp 3: Tăng cường luyện tập các bài toán có lời văn cho học sinh. Giải pháp 4: Dạy học quan tâm đồng đều đến tất cả các đối tượng học sinh. Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ toán. 2. Các biện pháp tổ chức thực hiện: 2.1. Biện pháp 1: Nghiên cứu chương trình toán 2, sau đó phân loại các dạng bài trong phần giải toán có lời văn ở lớp 2. Được phân công dạy lớp 2 nhiều năm tôi đã nghiên cứu và nắm vững nội dung chương trình toán 2. Tôi nhận thấy: Trong phần giải các bài toán có lời văn được lồng ghép, xuyên suốt trong toàn bộ chương trình. Ở tất cả các tiết học hầu như đều có ít nhất một bài toán có lời văn. Qua nghiên cứu, tôi đã lọc ra một số dạng bài toán có lời văn thường gặp ở lớp 2 như sau: Dạng 1: Tìm số bị trừ. Ví dụ: Trên bờ có một số con vịt. Khi 8 con vịt đã xuống ao thì còn lại 7 con vịt. Hỏi trên bờ lúc đầu có bao nhiêu con vịt? Dạng 2: Bớt đi 1 số đơn vị ở mỗi số. Ví dụ: Gà đẻ được 51 quả trứng. Mẹ đã lấy 6 quả để làm món ăn. Hỏi còn bao nhiêu quả trứng? Dạng 3: Tìm số hạng chưa biết. Ví dụ: Cả cam và quýt có 45 quả trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt? Dạng 4: Tìm số trừ. Ví dụ: Một bến xe có 35 ôtô, sau khi một số ôtô rời bến thì trong bến còn lại 10 ôtô. Hỏi có bao nhiêu ôtô rời bến? Dạng 5: Bài toán về nhiều hơn, ít hơn. (hoặc thêm, bớt) + Lớp 2A có 15 bạn gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3 bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai ? + Tháng trước tổ em có 16 bạn được khen, tháng này tổ em có nhiều hơn tháng trước 5 bạn được khen. Hỏi tháng này tổ em có bao nhiêu bạn được khen? … 2.2. Biện pháp 2: Hình thành kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh qua một số dạng bài : Dạng 1: Tìm số bị trừ. Ví dụ: Trên bờ có một số con vịt. Khi 8 con vịt đã xuống ao thì còn lại 7 con vịt. Hỏi trên bờ lúc đầu có bao nhiêu con vịt? Tôi đã hướng dẫn học sinh giải dạng toán này như sau: Bước 1 : Đọc và phân tích đề bài: Đối với dạng toán này yêu cầu học sinh tìm hiểu kĩ nội dung đề bài để hiểu rõ bài toán cho biết gì? ( Trên bờ có một số con vịt, có 8 con vịt xuống ao, còn lại 7 con vịt) Khi đọc xong bài này học sinh phải hiểu kĩ từ “xuống ao” và thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho để tóm tắt đề toán. Giáo viên cho học sinh tự tìm tòi và tự tóm tắt theo cách hiểu của mình, sau đó giáo viên đưa ra cách tóm tắt phù hợp nhất. Tóm tắt: Trên bờ có: ? con vịt Đã xuống ao: 8 con vịt Còn lại : 7 con vịt Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán. Từ bước 2 tôi đã diễn giải để học sinh tìm cách giải như sau: ? – 8 = 7 Số vịt trên bờ Số vịt xuống ao Số vịt còn lại Giáo viên Học sinh ? Bài toán này yêu cầu ta tìm gì? – Số vịt lúc đầu trên bờ Giáo viên phân tích cho học sinh nhận ra các thành phần trong phép trừ. – Học sinh quan sát ? Hãy nhắc lại cho cô các thành phần trong phép tính trừ? – Số bị trừ – số trừ = hiệu ? Nhìn vào sơ đồ em thấy bài toán yêu cầu tìm gì? – Số bị trừ ? Muốn tìm số bị trừ ta làm như thế nào? – Ta lấy hiệu + số trừ ? Đối với bài toán này ta làm như thế nào? – Lấy số vịt còn lại + số vịt đã xuống ao. Bước 4: Thực hiện tính theo trình tự để viết bài giải. – Học sinh tự tìm ra lời giải của bài toán. Bài giải + Số vịt trên bờ lúc đầu là (câu lời giải được ghi dưới dạng mệnh đề khẳng định) Hoặc: Trên bờ có số vịt là: 7 + 8 = 15 ( con vịt) Đáp số: 15 con vịt Bước 5: Kiểm tra lời giải, phép tính và đáp số. – Học sinh nêu ra lời giải của mình. – Học sinh nhận xét lời giải của bạn. – Giáo viên đưa ra lời giải đúng. – Học sinh tự sửa chữa bài của mình. – Học sinh có thể giải bằng cách khác (nếu có). Dạng 2: Bớt đi 1 số đơn vị ở mỗi số. Ví dụ: Gà đẻ được 51 quả trứng. Mẹ đã lấy 6 quả để làm món ăn. Hỏi còn bao nhiêu quả trứng? Tôi cũng hướng dẫn giải theo các bước sau: Bước 1: Đọc và phân tích đề bài ? Bài toán cho biết gì ? – Gà đẻ được 51 quả trứng, lấy đi 6 quả làm món ăn. ? Bài toán hỏi gì? – Còn lại bao nhiêu quả trứng. Tôi chú ý giải thích cho học sinh hiểu được từ ” lấy đi” có nghĩa là ” bớt đi” Bước 2: Tóm tắt đề bằng ngôn ngữ Gà đẻ: 51 quả trứng. Lấy đi: 6 quả trứng. Còn lại: ? quả trứng. Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán. ? Muốn biết còn lại bao nhiêu quả trứng ta làm như thế nào? ( Lấy số quả trứng có lúc đầu (51 quả) trừ đi Số trứng lấy đi ( 6 quả)). Bước 4: Giải bài toán Học sinh đặt lời giải ứng với yêu cầu của đề bài Bài giải Số quả trứng còn lại là: 51 – 6 = 45 (quả) Đáp số: 45 quả trứng. Bước 5: Kiểm tra bài giải. Học sinh tự đánh giá bài của mình và của bạn bằng cách đổi chéo vở để kiểm tra kết qủa cho nhau (dựa trên kết quả đúng mà giáo viên đã đưa ra nhận xét trên bảng) Dạng 3: Tìm số hạng chưa biết. Ví dụ: Cả cam và quýt có 45 quả trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt? Bước 1: Đọc và phân tích đề bài. ? Bài toán cho biết gì? (45 quả vừa cam, vừa quýt, có 25 quả cam). ? Bài toán hỏi gì? ( Có bao nhiêu quả quýt) Bước 2: Tóm tắt bài toán. Bài toán này tóm tắt bằng ngôn ngữ ngắn gọn. 45 quả 25 quả cam. ? quả quýt. Bước 3: phân tích bài toán để tìm cách giải. Bài toán có thể biểu diễn như sau: 25 quả cam + ? quả quýt = 45 quả. ? Nêu tên gọi và thành phần của phép tính trên – Số hạng + số hạng = tổng ? Phép tính yêu cầu gì? – Tìm số quả quýt (Chính là số hạng chưa biết ) ? Muốn tìm số hạng chưa biết ta làm như thế nào? – Lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. ? Áp dụng bài toán này ta làm như thế nào? – Lấy 45 quả trừ đi 25 quả ta tìm được số quả quýt. Bước 4: Giải bài toán ? Bài tập yêu cầu chúng ta tìm gì? – Tìm số quả quýt ? Lời giải bài toán như thế nào? – Số quả quýt có là : ? Nêu phép tính thích hợp? 45 – 25 = 20 ( quả quýt) Bước 5: Kiểm tra bài giải. Học sinh tự kiểm tra lời giải của mình bằng cách so sánh bài của mình với bài của bạn và bài của cô giáo. Dạng 4: Tìm số trừ. Ví dụ: Một bến xe có 35 ôtô, sau khi 1 số ôtô rời bến thì trong bến còn lại 10 ôtô. Hỏi có bao nhiêu ôtô rời bến? Bước1: Đọc và phân tích đề bài. ? Bài toán cho biết gì? – Bến xe có 35 ôtô. Còn lại 10 xe ô tô. ? Bài toán hỏi gì? – Có bao nhiêu xe đã rời bến. Đối với bài này tôi phân tích cho học sinh hiểu các từ ” có”, ” rời bến” và mối liên hệ giữa các từ này. Bước 2: Tóm tắt đề bài. Tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng ngôn ngữ ngắn gọn như sau: Có : 35 ôtô Rời bến : ? ôtô Còn lại: 10 ôtô Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán Bài toán có thể viết thành: Có – Rời bến = Còn lại 35 ôtô ? ôtô 10 ôtô ? Hãy cho biết tên gọi các thành phần trong phép trừ? – Số bị trừ, số trừ, hiệu ? Muốn tìm số trừ ta làm như thế nào? – Lấy số bị trừ trừ đi hiệu? ? Vậy muốn tìm số ô tô rời bến ta làm như thế nào? – Lấy số ô tô có (35 ô tô) trừ đi số ô tô còn lại ( 10 ô tô) Bước 4 : Giải bài toán ? Bạn nào đặt cho cô lời giải bài toán này? ( số ô tô rời bến là) Học sinh giải bài toán vào vở. Bài giải Số ôtô rời bến là: 35 – 10 = 25 ( ôtô) Đáp số: 25 ôtô Bước 5: Kiểm tra bài giải So sánh bài của mình và bài của bạn hoặc bài giải của giáo viên để có kết quả đúng. Dạng 5: Bài toán về nhiều hơn, ít hơn. Ví dụ: Hoà có 4 bông hoa, bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. Hỏi Bình có mấy bông hoa? – Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán: + Bài toán này thuộc dạng toán nào? + Đề bài cho chúng ta biết cái gì? + GV hướng dẫn cho HS tìm hiểu bước 2. – Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán: 4 bông hoa Biểu thị số bông hoa bằng sơ đồ đoạn thẳng. 2 bông hoa Hoà: Bình: ? bông hoa + Tìm cách giải bài toán: Nhìn vào tóm tắt cho thấy Bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. – Muốn tìm số bông hoa của Bình thì ta phải tìm thế nào? * Thực hiện cách giải: Bình có số bông hoa là: 4 + 2 = 6 ( bông ) Đáp số: 6 bông hoa. * Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? (Bài tập 1, Tr. 30- SGK Toán 2) 17 cây – Hướng dẫn HS tóm tắt: Vườn nhà Mai: 7 cây Vườn nhà Hoa: ? cây Bài giải: Vườn nhà Hoa có số cây cam là: 17 – 7 = 10 (cây) Đáp số: 10 cây cam. 2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn qua thực hiện qua các bước cụ thể. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: Để học sinh lớp 2 thực hiện tốt các bài tập giải toán có lời văn thì giáo viên cần cung cấp hướng dẫn học sinh thực hiện thuần thục các bước giải bài toán. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy trên lớp, tôi luôn chú ý hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải của bài toán có lời văn như sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán. Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả” Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại: “ Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán Bước 2: Tìm cách giải bài toán. a. Chọn phép tính giải thích hợp: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép tính cộng” nếu bài toán yêu cầu “ nhiều hơn” hoặc “ gộp”, “ tất cả”. Chọn “ phép tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm phần còn lại” hay là “ít hơn” Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi ý như: + Bài toán cho biết gì? ( Vườn nhà Mai có 17 cây cam) + Bài toán còn cho biết gì nữa? (Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây) + Bài toán hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam) + Muốn biết vườn nhà Hoa
Skkn Một Số Biện Pháp Dạy Học Sinh Lớp 2 Giải Toán Có Lời Văn
1.1. Lý do chọn đề tài: Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy Đại hội Đảng lần thứ XI đã có nghị quyết về giáo dục đó là: “Nâng cao giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.” Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục. Bộ giáo dục – đào tạo đã chủ trương đổi mới chương trình tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện giáo dục toàn diện (Đức, trí, thể, mỹ và các kỹ năng cơ bản) đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa các lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường tiểu học. Bậc tiểu học là bậc đầu tiên của hệ thống giáo dục thuộc nền văn minh nhà trường của mỗi quốc gia. Là bậc học tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho trẻ tiếp tục học lên bậc học trên, hình thành những cơ sở ban đầu tạo ra những con người có “tài”, có “đức”. Những gì thuộc về trí thức và kỹ năng về hành vi và tình người được định hình ở bậc Tiểu học và nó sẽ theo suốt cuộc đời mỗi em như : kỹ năng tính toán trong cuộc sống hằng ngày Những gì được hình thành và định hình ở trẻ rất khó thay đổi, cải tạo lại. Chính vì vậy môn Toán ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động trí tuệ rất lớn cho học sinh. [1] Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là “Lấy học sinh làm trung tâm”, người thầy là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức của học sinh, với các môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Để vận dụng tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết với nghề, phải dày công nghiên cứu tìm ra giải pháp thích hợp với đối tượng học sinh mình dạy. Qua xem xét và nghiên cứu thực tế dạy toán có lời văn của lớp 2 trường Tiểu học Quảng Lưu. Tôi thấy chỉ được khoảng 30% biết giải toán, còn 70% rất lơ mơ, lúng túng những bài toán có lời văn. Dạy học toán có lời văn là một bộ phận kiến thức toán học hoàn chỉnh cho học sinh Tiểu học. Mỗi bài toán có lời văn là một tình huống có vấn đề buộc các em phải tư duy, suy luận và phân tích tổng hợp để giải quyết vấn đề. Qua giảng dạy thực tế của lớp 2 những năm trước, tôi thấy học sinh gặp rất nhiều khó khăn về tính toán, tư duy, kĩ năng trong việc giải toán có lời văn. Chính vì những lý do trên bản thân tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiÖm về: “Một số biện pháp dạy học sinh lớp 2 giải toán có lời văn” 1.2. Mục đích nghiên cứu: – Nghiên cứu đề tài này nhằm giúp bản thân tôi cũng như đồng nghiệp có được những hiểu biết cơ bản về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 trong nhà trường Tiểu học hiện nay. Qua đề tài này tôi có điều kiện học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để tìm ra phương pháp hiệu quả nhất về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở cấp Tiểu học nói chung. – Giúp học sinh phát triển các kỹ năng giải toán có lời văn ở lớp 2 thành thạo và vận dụng được các phép tính nhân chia vào giải toán có lời văn và kỹ năng tính toán trong cuộc sống hằng ngày. Qua đó bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; hứng thú đọc sách, nghiên cứu và yêu thích học Toán. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Những biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 ở trường Tiểu học Quảng Lưu – Quảng Xương – Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp trực quan Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại) Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề [2] 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm: 2.1.Cơ sở lí luận của việc giải toán có lời văn ở lớp 2: 2.1.1. Vị trí và tầm quan trọng của môn toán lớp 2: Môn Toán là một môn học khó đối với tất cả các lớp học và giải toán có lời văn lại càng khó hơn đối với các em đầu cấp. Toán lớp 2 là môn học có vị trí gần như là nền móng, là cái gốc, là điểm xuất phát của cả một bộ môn khoa học. Các em học tốt và giải các bài toán có lời văn một cách thành thạo là điểm khởi đầu cho các môn học khác, giúp các em lớn lên nhiều em trở thành tiến sĩ, kĩ sư, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ… trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống; trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi… nhưng các em không nắm được các công thức toán học để vận dụng vào cuộc sống thường ngày thì máy xách tay, máy tính bỏ túi, điện thoại, cũng vô giá trị. Vì vậy việc học toán rất là quan trọng và những bài toán giải có lời văn ban đầu các em cần phải giải thành thạo. Từ đó giúp các em tự tin trong học toán. Đối với mạch kiến thức: “Giải toán có lời văn” là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp Tiểu học. Thông qua cách giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Giải toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. 2.1.2. Vai trò của việc dạy giải toán cho học sinh lớp 2: Với việc dạy và rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 là một việc khó và rất quan trọng của môn Toán. Thông qua dạy giải toán có lời văn, giáo viên đã giúp học sinh xác định được cấu trúc giải một bài toán có đầy đủ các phần (tóm tắt, bài giải, câu lời giải, phép tính và đáp số). Giúp học sinh dễ tìm hiểu những nội dung có trong bài toán và qua đó góp phần giáo dục học sinh về mọi mặt. Mặt khác, học sinh hiểu và biết cách giải bài toán có lời văn ngay từ lớp 2 sẽ thuận lợi hơn khi theo học các lớp trên và áp dụng giải những bài tập khó hơn, phức tạp hơn. 2.1.3. Nội dung chương trình của toán lớp 2 loại bài toán giải có lời văn: Chương trình Toán 2 gồm 175 tiết, trong đó có đưa phần ôn tập về dạng toán thêm, bớt ở lớp 1 và phần lớn là ở 2 dạng toán mới về giải toán có lời văn (Bài toán về nhiều hơn – Bài toán về ít hơn) vào học kỳ I và chia thành hai giai đoạn: – Giai đoạn 1: Giải các bài toán có lời văn bằng một phép tính cộng. – Giai đoạn 2: Giải các bài toán có lời văn bằng một phép tính trừ. [3],[4],[5] 2.2. Thực trạng: 2.2.1 Tình hình địa phương và nhà trường: Quảng Lưu là một xã nằm ở phía đông huyện Quảng Xương là một xã thuộc vùng khó của huyện Quảng Xương. Nền kinh tế của nhân dân còn thấp, chưa đồng đều. Bố mẹ chủ yếu đi làm ăn xa, để con ở nhà với ông bà, thậm chí có em ở nhà với anh, chị cũng là học sinh cấp 1, 2. Điều kiện kinh tế còn khó khăn nên chưa có điều kiện quan tâm đến việc học tập của con. Đa số học sinh ngoài giờ học còn phải giúp bố mẹ công việc gia đình. Có lẽ vì vậy mà thời gian học ở nhà của các em ít và không được sự bố mẹ hướng dẫn thêm cho các em học ở nhà. Những hạn chế này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập nói chung đối với môn toán nói riêng và đặc biệt là việc học giải toán có lời văn của học sinh. Để nâng cao chất lượng của học sinh, tôi đã chú trọng đến các môn học nói chung và nhất là môn toán, một môn học khó đối với học sinh. Trọng tâm hơn là chú trọng đến việc học giải toán có lời văn tốt hơn. 2.2.2. Thực trạng của việc tố chức dạy học rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2: * Những việc làm được: – Về giáo viên: Những năm học gần đây, chất lượng môn toán ngày càng đi lên kể cả chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn. Bam giám hiệu đã chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học trong đó có môn toán. Bam giám hiệu đã tổ chức cho giáo viên dạy đối chứng chuyên đề, thăm lớp dự giờ đồng nghiệp để nâng cao tay nghề. Qua những tiết dự giờ đồng nghiệp, bản thân tôi muốn học sinh trường Tiểu học Quảng Lưu giải toán có lời văn tốt hơn nữa nên tôi ứng dụng biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học lớp 2E, lớp tôi chủ nhiệm và giảng dạy.. – Về học sinh: Lớp tôi chủ nhiệm có 32 em học sinh, đa số các em ngoan, chăm học. Đầu năm học, tôi đã kiểm tra đồ dùng học tập, sách, vở của từng em nên lớp tôi 100% học sinh có đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập phục vụ các môn học. Lớp tôi có khoảng 32% học sinh trong diện tiếp thu bài nhanh ở môn toán. Tôi đã xây dựng được nề nếp học tập trong lớp. Các em đã có thói quen học tập cá nhân, học theo nhóm, đôi bạn cùng tiến bộ. * Những việc chưa làm được: – Đối với giáo viên: Những tiết dự giờ đồng nghiệp trong trường, qua các vòng thao giảng để chọn giáo viên dạy giỏi cấp trường và qua những năm tháng giảng dạy, tôi nhận thấy phương pháp dạy dạng giải toán có lời văn ở một số giáo viên chưa phù hợp với đối tượng học sinh lớp 2. Từ cách dẫn dắt, diễn đạt của giáo viên còn lúng túng, khó hiểu đối với học sinh và hình thành cho học sinh giống như một bài mẫu để học sinh bắt chước. Phương pháp truyền thống theo lối mòn chủ yếu của giáo viên là đọc đầu bài cho học sinh nghe, (hoặc nhìn sách) rồi sau đó gợi ý học sinh tìm lời giải một cách chung chung không cụ thể, học sinh không hiểu bắt đầu viết lời giải như thế nào? Dựa vào đâu?… Vì vậy chưa khắc sâu được kiến thức cho học sinh dẫn đến học sinh còn lúng túng trong cách giải, giải sai. – Đối với học sinh: Học sinh lớp 2, bước đầu các em mới được làm quen và giải toán có lời văn về dạng “Thêm – Bớt”. Các em còn lúng túng trong cách giải, vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Hơn nữa một số học sinh chưa biết cách tự học, chưa tự giác trong học tập còn phải nhắc nhở, đôn đốc. Có em có thể viết được phép tính và tính đúng kết quả của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra cách giải, chưa biết trình bày bài giải một cách đầy đủ, diễn đạt còn quá vụng về, thiếu lôgic. Một số em học toán và giải toán một cách máy móc, bắt chước bài mẫu, chưa linh động, sáng tạo trong giải toán có lời văn. Học sinh còn lẫn lộn giữa giải toán có lời văn với thực phép hiện tính, chưa phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm trong giải bài toán có lời văn. Qua khảo sát thực tế chất lượng giải toán có lời văn ở lớp 2E, lớp tôi chủ nhiệm và lớp 2B do cô Nguyễn Thị Hà chủ nhiệm giữa kì 1, năm học 2017 – 2018 như sau: Đề bài: Câu 1: Hà có 25 que tính, Lan có nhiều hơn Hà 5 que tính. Hỏi Lan có bao nhiêu que tính? Câu 2: Giải bài toán có tóm tắt sau: – Hướng dẫn học sinh tóm tắt: 10 viên bi Hùng: 3 viên bi Cường: ? viên bi Kết quả khảo sát lần 1 Lớp Sĩ số Học sinh làm bài tốt Học sinh làm đúng phép tính, sai lời giải(hoặc đúng lời giải, sai phép tính Học sinh chưa hiểu cách làm bài giải, làm sai cả lời giải và phép tính 2B 30 em SL TL SL TL SL TL 14 46,7% 10 33,3% 6 20% 2E 32 em 13 40,6% 11 34,4% 8 25% Từ kết quả khảo sát chất lượng ở hai lớp, tôi thấy số học sinh làm sai phép tính và lời giải chiếm tỷ lệ khá cao, lớp 2B: 6em/ 20%; Lớp 2E: 8 em/25%. Phần lớn là học sinh gặp khó khăn trong việc tìm câu lời giải cho bài toán, có nhiều em quên ghi đơn vị ở kết quả của phép tính và ở đáp số. * Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế trên: Ở lớp 1 các em mới được làm quen với giải toán có lời văn về dạng toán “Thêm – Bớt”, các em còn lúng túng trong việc giải toán. Lên lớp 2, ngay đầu năm các em được ôn lại phần giải toán có lời văn về dạng “Thêm – Bớt”. Và bắt đầu từ tuần 5, các em chuyển sang dạng giải toán có lời văn “Bài toán về nhiều hơn”. Dạng toán này, các em chỉ được học trong 2 tiết, các em chưa nắm vững cách giải dạng toán này lại tiếp tục học dạng mới về giải toán dạng “Bài toán về ít hơn”. Vì vậy một số em còn lẫn lộn giữa dạng toán “Thêm – Bớt”, dạng toán “Bài toán về nhiều hơn” và dạng toán “Bài toán về ít hơn”. Một số em còn nhút nhát, không tự tin, không chịu suy nghĩ tìm tòi lời giải. Các em chưa mạnh dạn trao đổi với bạn, với cô giáo khi chưa hiểu yêu cầu của bài nên hiểu thế nào làm thế ấy dẫn đến làm sai. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề dạy giải toán có lời văn ở lớp 2: 2.3.1. Đối với giáo viên dạy lớp 2: – Để giảng dạy tốt môn Toán lớp 2 nói chung và giảng dạy phần “Giải bài toán có lời văn” nói riêng, việc đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa. – Luôn học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, có đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. – Lựa chọn câu hỏi sao cho gần gũi với lời giải, học sinh chỉ cần thay đổi chút ít về từ để được câu lời giải thích hợp. – Gợi mở bằng cách cài “cốt câu” lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt mà viết câu lời giải. – Khuyến khích học sinh tìm ra cách nêu câu lời giải khác nhau cho lời giải. Ví dụ: Em hái được 12 bông hoa, chị hái đươc nhiều hơn em 5 bông hoa. Hỏi chị hái được bao nhiêu bông hoa? Học sinh có thể đặt lời giải theo rất nhiều cách như: + Chị hái được số bông hoa là: …….. + Số bông hoa chị hái được là: ………. 2.3.2. Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước làm toán có lời văn lớp 2 và khắc phục những lỗi sai khi giải toán có lời văn lớp 2: Qua đề tài này, tôi hy vọng giúp cho giáo viên đang giảng dạy ở lớp 2 trường Tiểu học Quảng Lưu hướng dẫn học sinh khắc phục những lỗi sai khi giải toán có lời văn với nội dung thực tế gần gũi và gắn liền với cuộc sống đời thường của học sinh, trong đó có các dạng giải toán có lời văn: – Bài toán về nhiều hơn. – Bài toán về ít hơn. Qua kinh nghiệm 28 năm công tác, tôi nhận thấy học sinh thường mắc những lỗi sai khi giải toán có lời văn như sau: Ví dụ: Tấm vải xanh dài 52cm, tấm vải đỏ dài hơn tấm vải xanh 6cm. Hỏi tấm vải đỏ dài bao nhiêu xăng – ti – mét? – Sai về đặt lời giải (hoặc dùng từ chưa chính xác) như: Học sinh có thể đặt lời giải cho bài giải như sau: Tấm vải xanh dài mấy cm: Hoặc: Tấm vải đỏ dài mấy xăng – ti – mét: – Sai về phép tính (Hoặc kết quả của phép tính chưa đúng) như: 52 – 6 = 46 (cm) Hoặc: 52cm + 6cm = 58(cm) – Thiếu đơn vị đo ở phép tính như: 52 + 6 = 52 – Có học sinh khi giải bài toán quên không ghi đáp số (Hoặc thiếu đơn vị đo ở đáp số) Để giúp học sinh lớp 2 khắc phục những lỗi sai trên về giải toán có lời văn, tôi tiến hành theo 5 bước sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán: Thông qua việc đọc bài toán, học sinh phải đọc kĩ để hiểu rõ bài toán cho biết gì? Cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Khi đọc bài toán phải hiểu rõ tình huống toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường sau đó học sinh “thuật lại vắn tắt bài toán mà không cần đọc lại nguyên văn đề bài, đó là bước 1. Bước 2: Tóm tắt bài toán: Là bước quan trọng để thể hiện phần trọng tâm và toát lên những cái phải tìm của đề bài. Bước 3: Tìm tòi cách giải bài toán: Gắn liền với việc phân tích các giữ liệu, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác lập mối liên hệ giữa chúng và tìm được các phép tính số học thích hợp. Minh họa bài toán bằng tóm tắt đề toán, dùng sơ đề hoặc dùng mẫu thích hợp, tranh, ảnh Lập kế hoạch giải bài toán, có hai hình thức thể hiện: Đi từ câu hỏi của bài toán đến với số liệu, hoặc đi từ số liệu đến các câu hỏi của bài toán. Ví dụ: Giang hái được 24 quả cam, Sơn hái được nhiều hơn Giang 5 quả cam. Hỏi Sơn hái được bao nhiêu quả cam? Xuất phát của bài toán đến giữ kiện: – Bài toán hỏi gì? (Giang hái được bao nhiêu quả cam?) – Có thể biết ngay chưa? Vì sao? – Có thể biết được số quả cam Sơn hái được nhiều hơn Giang bao nhiêu quả cam chưa? Vì sao? – Vậy việc đầu tiên các em phải tìm cái gì? – Tiếp theo là làm gì? Bằng cách nào? Đã trả lời lời câu hỏi của bài toán chưa? Xuất phát từ giữ kiện đến câu hỏi của bài toán. Kết quả cuối cùng có phải là đáp số của bài toán không? Bước 4: Thực hiện cách giải: Bài giải Sơn hái được số quả cam là: 24 + 5 = 29 (quả) Đáp số: 29 quả cam Bước 5: Cách giải bài toán: Phân tích cách giải đúng hay sai, sai ở chỗ nào để sửa chữa. *) Hướng dẫn học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn, thông qua ví dụ sau: Ví dụ: Lan hái được 15 bông hoa, Huệ hái được nhiều hơn Lan 4 bông hao. Hỏi Huệ hái được bao nhiêu bông hoa? Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán: – Bài toàn này thuộc loại toán nào? – Đề bài cho chúng ta biết gì? – Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bước 2: Tóm tăt đề toán: Biểu thị số bông hoa bằng sơ đồ đoạn thẳng 15 bông hoa 4 bông hoa Lan Huệ ? bông hoa – Tìm cách giải bài toán: Nhìn vào tóm tắt cho thấy Huệ có nhiều hơn Lan 4 bông hoa. – Muốn tìm số bông hoa của Huệ ta phải làm thế nào? Thực hiện cách giải bài toán: Bài giải Huệ hái được số bông hoa là: 15 + 4 = 19 (bông) Đáp số: 19 bông hoa Ví dụ: Phương Chi được cô giáo thưởng 10 quyển vở, Ánh Ngọc được cô giáo thưởng ít hơn Phương Chi 3 quyển vở. Hỏi Ánh Ngọc được cô giáo thưởng mấy quyển vở? – Hướng dẫn học sinh tóm tắt: 10 quyển vở Phương Chi: 3 quyển vở Ánh Ngọc: ? quyển vở Bài giải Ánh Ngọc được cô giáo thưởng số quyển vở là: 10 – 3 = 7 (quyển) Đáp số: 7 quyển vở – Kiểm tra bài giải: Qua ví dụ trên em nào biết: Muốn làm một bài toán có lời văn thì ta phải thực hiện mấy bước? (Thực hiện 5 bước) – Học sinh xây dựng thành ghi nhớ. – Giáo viên ghi lên bảng từng bước sau đó gọi 1, 2 học sinh đọc to cho cả lớp nghe. 2.3.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp để dạy dạng bài: “Giải bài toán có lời văn” ở lớp hai: * Phương pháp trực quan: Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 2 thường sử dụng phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó tìm ra đường lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 2 có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan. [2] * Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại): Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm cách giải, chữa bài làm của học sinh, nhận xét đánh giá bài làm của bạn … Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh trả lời như: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Bài toán yêu cầu tìm gì. Gợi mở để dẫn dắt học sinh thông qua những dữ kiện đã biết để tìm cái chưa biết, cần tìm. Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học giải toán có lời văn lớp 2 nói riêng phải sử dụng phương pháp nàythật khéo léo, nhẹ nhàng, dùng các từ ngữ dễ hiểu để gợi ý để học sinh dễ hiểu và các em mới nhớ lâu. [2] * Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề: Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này. Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải. Hoặc giáo viên cho phần biết – học sinh tự nêu phần hỏi và giải bài toán hay ngược lại. 2.3.4. Đổi mới phương pháp dạy học: Lứa tuổi học sinh lớp 2, lứa t
Đề Tài: Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 4 Giải Toán Có Lời Văn
Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt.góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khóTừ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy – học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào? Để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÂN HIỆP TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN AN 5 ˜–µ—™ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Người thực hiện: Võ Hoàng Anh Chức vụ: Giáo viên chủ nhiệm lớp 4C Năm học 2011 - 2012 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Họ và tên: Võ Hoàng Anh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường tiểu học Tân An 5 I: Lời nói đầu 1/ Lí do chọn đề tài: Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt...góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khóTừ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào? Để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học. Theo chúng tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí mục đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn toán ở bài học nói chung và trong giờ dạy toán lớp 4 nói riêng. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến thức toán học, rèn kỹ năng giải toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh tức là dạy cách học. Vì vậy giáo viên phải đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học. Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng chóng chán. Vì vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra không khí sẵn sàng học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức. Xuất phát từ cuộc sống hiện tại. Đổi mới của nền kinh tế, xã hội, văn hoá, thông tin...đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ dám làm năng động chủ động sáng tạo có khả năng để giải quyết vấn đề. Để đáp ứng các yêu cầu trên trong giảng dạy nói chung, trong dạy học Toán nói riêng cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học. Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tính cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận thức của học sinh. Để đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói riêng. Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học...đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưa điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học chung và lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng học toán cho học sinh. 2/ Sơ lược lịch sử vấn đề Nói đến hoạt động dạy và học thì không thể không nói đến phương pháp dạy và phương pháp học, hai hoạt động đó diễn ra song song. Nếu chỉ chú ý đến truyền thụ cho HS mà không chú ý đến việc tiếp thu và hình thành lĩ năng, kĩ xảo như thế nào thì quá trình học sẽ không mang lại kết quả cao. Kiến thức giải toán có lời văn dạng tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó là nội dung trọng tâm của dạy học toán lớp 4 bậc tiểu học. Về thực chất nội dung này là sự mở rộng những hiểu biết về tổng và tỉ số. Vì vậy các bài toán về dạng tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó điều có dạng tương tự. -Do đó khi học sinh làm bài về dạng trên, giáo viên giúp học sinh tự nhớ lại: -Cách xác định tổng và tỉ. -Cách xác định số phần tương ứng. -Vẽ sơ đồ tương ứng với số phần. -Tìm tổng số phần bằng nhau. -Tìm số bé. -Tìm số lớn. Đây là cơ hội để học sinh củng cố các kiến thức về kĩ năng cơ bản về đọc, viết, phân biệt đồng thời cũng giúp HS khắc sâu một số đặc điểm riêng của dạng toán này. II/ Thực trạng vấn đề 1. Thực trạng tình hình Trong các năm học vừa qua tôi được phân công dạy lớp 4 tôi nhận thấy tình hình học tập của các em trong lớp không đồng đều. Môn toán là môn học khó khăn, học sinnh dễ chán, trình độ nhận thức của các em không đồng đều. Một số HS được sự quan tâm của gia đình thì ý thức học tập tốt đạt kết quả cao nhất là môn toán. Cón các HS đạt kết quả chưa cao là do chưa có ý thức được việc học, gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình, vì vậy khi bước sang giải toán có lời văn thì HS thường bị lúng túng, nhiều HS không nắm vững được tính chất của dạng toán này. Trong thực hành thường là thiếu vững chắc trong phân biệt tổng, tỉ, vẽ sơ đồ minh họa thao tác đặt lời giải và đặt phép tính thường bị sai. Năng lực học tập tự giác của các em còn hạn chế, chỉ tập trung ở một số em khá, giỏi, đa số các HS trung bình thường quen học thụ động. Từ những vấn đề đó tôi đã tìm hiểu; nghiên cứu đưa ra một số biện pháp nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học môn toán. 2/ Những hạn chế khó khăn Được sự quan tâm của BGH trong mấy năm liền tôi đều dạy lớp 4, đã quen dần với nhận thức của HS ở địa phương, tuy nhiên trong quá trình dạy cũng gặp không ít những khó khăn hạn chế: -Một số em mất căn bản ở những lớp dưới. -Một số em chưa nắm tốt quy trình của toán có lời văn. -Một số em thường thực hiện sai lời giải và các phép tính -Một số em thường không đọc kĩ đề toán, chủ quan trong làm bài. Do các em chưa xác định tổng, tỉ, chưa phân biệt được số phần tương ứng nân dẫn đến vẽ sơ đồ sai. Nguyên nhân của hiện tượng này là HS chưa nắm kĩ về quy trình thực hiện các bước. Một số em chưa biết dạng toán nên đôi khi còn nhầm lẫn đến giải bài toán chưa đạt kết quả. Cơ sở vật chất trang bị chưa đầy đủ nên thực hiện phương pháp này đạt kết quả chưa cao. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. Vào đầu năm học trong đợt khảo sát chất lượng về giải toán có lời văn, đầu năm kết quả như sau : Số học sinh Tóm tắt bài toán Chọn và thực hiện đúng phép tính Lới giải và đáp số Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % 35 5 14,3 30 85,7 5 14,3 30 85,7 9 25,7 26 74,3 III/ Giải pháp và kết quả * Giải pháp Qua đặc điểm tình hình khó khăn trên tôi mạnh dạng áp dụng đổi nới phương pháp giải toán có lời văn cho HS lớp 4. vào công việc giảng dạy môn toán, nhằm giúp các em có thể giải các bài toán một cách dễ dàng, các em thực sự hứng thú ham học không chán nản khi gặp những bài toan1kho1 ở dạng toán này. Trên lớp tôi vừa áp dụng đổi mới phương pháp vừa làm tốt công tác kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Qua kết quả khảo sát cho thấy kĩ năng giải các bài toán có lời văn của các em còn rất nhiều hạn chế vì thế tôi liền lên kế hoạch như sau : - Tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh yếu môn toán có khó khăn như thế nào. - Vì sao khiến các em không thích học môn toán. - Chia học sinh thành từng tổ, từng nhóm, mỗi nhóm có học sinh khá, giỏi làm tổ trưởng và điều hành các bạn trong tổ những việc giáo viên giao. - Lập kế hoạch cho từng tổ. - Giáo viên hạn chế phê bình, chê trách học sinh, thường xuyên chấm điểm động viên, khen ngợi kịp thời. - Nhiệt tình trong giảng dạy không chạy theo thành tích mà cố gắng truyền đạt tất cả các nội dung thật sâu sắc, hướng dẫn tỉ mỉ từng bước giải. Bên cạnh đó khi học đến dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó, giáo viên phải lên kế hoạch, phương pháp truyền thụ như thế nào để các em có thể học tốt, không rụt rè, bở ngở nhất là nhận dạng toán, vẽ sơ đồ tìm tổng số phần, và các phép tính, tôi có các biện pháp hướng dẫn như sau : 1/ Tự học tập và nghiên cứu để nắm vững được tác dụng cũng như việc tiến hành thực hành đổi mới trong phương pháp giảng dạy : Tôi thấy đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy giải toán nói riêng là nhằm tìm ra đựơc phương pháp logic cho từng nội dung của từng môn, từng bài để nhằm đạt được chất lượng cao nhất trong giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay chính là để phát hiện, lựa chọn phương pháp cụ thể phù hợp với quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm và phù hợp với nội dung giáo dục cụ thể. Vì vậy chúng tôi thường xuyên sinh hoạt thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp để học tập và xây dựng thống nhất cách thực hiện phương pháp đổi mới giảng dạy cho tất cả các môn học cho phù hợp để tìm ra con đường chuyển tải chính thức tới học sinh bằng con đường nhanh nhất, ngắn gọn nhất. Cần nghiên cứu, tìm hiểu để nắm được yêu câu của việc dạy toán nói chung và loại giải toán: "Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó" nói riêng. Đồng thời nắm được những thiếu sót của học sinh trong giải toán có lời văn. 2/ Chuẩn bị cho giờ dạy giải toán theo phương pháp đổi mới đạt kết quả. Để có được giờ dạy giải toán theo phương pháp đổi mới đạt kết quả tốt, phát huy được tính tích cực của học sinh thì giáo viên phải có thiết kế cụ thể rõ ràng, nó sẽ quyết định lớn đến chất lượng giờ dạy và đồng thời giáo viên cũng là người tổ chức, hướng dẫn thiết kế cho từng học sinh. Mọi học sinh đều chủ động học tập và phát triển cao nhất, chính vì lẽ đó cả 2 đối tượng thầy và trò đều phải có sự chuẩn bị chu đáo. Sự chuẩn bị của giáo viên: Trước khi dạy bất cứ một loại giải nào, trong tổ chúng tôi đều thống nhất là dành thời gian kĩ lưỡng về tất cả các bài tập của dạng toán đó, từ bài giảng đến bài luyện, từ bài trong sách giáo khoa đến bài trong vở bài tập để thấy được phương pháp giảng dạy phù hợp, ngắn gọn, học sinh dễ tiếp thu, giáo viên nói ít và chọn được những bài thêm để nâng cao kiến thức đối với đối tượng học sinh khá, giỏi dạy. Đồng thời cũng lường trước được chỗ học sinh hay vướng mắc trong khi thực hành giải loại toán đó mà giáo viên lưu ý trong giảng dạy. - Khi dạy loại: "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó". Học sinh được học 2 tiết bài mới (đó là tiết 1: "Tỉ số ở dưới dạng số tự nhiên", có nghĩa là so sánh giữa giá trị của số lớn với giá trị của số bé. Tiết 2: "Tỉ số ở dưới dạng phân số", có nghĩa...). Thì học sinh thường mắc ở dạng tỉ số là phân số nên giáo viên dạy cần lưu ý nhấn mạnh để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ mối quan hệ tỉ số là hai số trong bài giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra sự biểu diễn trên sơ đồ tóm tắt bài toán. Đây là loại toán giải khó đối với học sinh lớp 4 nên giáo viên phải giúp học sinh: + Xác định được tổng, tỉ số đã cho + Xác định được hai số phải tìm là số nào? Từ đó hướng tới phương pháp giải chung là ( phương pháp giải bài toán): Tìm tổng số phần bằng nhau Tìm giá trị của một phân bằng lấy tổng của hai số chia cho tổng số phần bằng nhau, rồi dựa vào mối quan hệ giữa tỉ số của hai số của hai số mà tìm ra giá trị của mỗi số phải tìm. Trên cơ sở đó học sinh sẽ nắm cách giải đặc trưng của loại toán này. Để củng cố được kĩ năng và kiến thức của loại toán này, tôi cho các em tự đặt đề toán theo loại toán đó đồng thời chọn các bài toán khó cho học sinh khá, giỏi (áp dụng vào tiết luyện tập hay buổi dạy riêng biệt đối với học sinh khá, giỏi). Tất cả sự chuẩn bị trên của giáo viên đều được thể hiện cụ thể trên bài soạn đủ các bước, đủ các yêu cầu và thể hiện được công việc của thầy và trò trong giờ giải toán. Sự chuẩn bị của học sinh: Đối với học sinh đã đạt được giáo dục và bồi dưỡng ý thức thích học toán, có thú vị, hào hứng trong hoạt động học toán, có phương pháp học bộ môn toán, có thao tác về giải toán phải có đầy đủ các dụng cụ học toán và chuẩn bị đầy đủ cho phù hợp với từng tiết học. Đối vưói học sinh khá, giỏi trong những buổi bồi dưỡng riêng biệt cần có thêm sách giáo khoa về luyện giải, sách giáo khoa nâng cao... Song không thể thiếu được những kiến thức về toán học có hệ thống logic từ lớp dưới, từ bài học trước phải chắc chắn làm cơ sở, nền tảng giúp học sinh tự tin trong hoạt động thực hanh, trong việc tiếp thu kiến thức. Ví dụ như khi học giải toán vê "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" thì các em đã được học bài trước là "Tỉ số"... 3/ Quy trình thực hiện dạy toán có lời văn: - Giải toán đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kỹ năng giải toán hơn nhiều so với kĩ năng tính vì bài toán giải là sự kết hợp đa dạng hoá nhiều khái niệm quan hệ toán học, ....chính vì vậy đặc trưng đó mà giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh có được thao tác chung trong quá trình giải toán sau: Bước 1: Đọc kỹ đề bài: Có đọc kỹ đề bài học sinh mới tập trung suy nghĩ về ý nghĩa nội dung của bàit oán và đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Chúng tôi có rèn cho học sinh thói quen chưa hiểu đề toán thì chưa tìm cách giải. Khi giải bài toán ít nhất đọc từ 2 đến 3 lần. Bước 2: Phân tích tóm tắt đề toán. Để biết bài toán cho biết gì? Hỏi gì? (tức là yêu cầu gì?) Đây chính là trình bày lại một cách ngắn gọn, cô đọng phần đã cho và phần phải tìm của bài toán để làm rõ nổi bật trọng tâm, thể hiện bản chất toán học của bài toán, được thể hiện dưới dạng câu văn ngắn gọn hoặc dưới dạng các sơ đồ đoạn thẳng. Bước 3: Tìm cách giải bài toán: Thiết lập trình tự giải, lựa chọn phép tính thích hợp. Bước 4: Trình bày bài giải: Trình bày lời giải (nói - viết) phép tính tương ứng, đáp số, kiểm tra lời giải (giải xong bài toán cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? (trong một số trường hợp nên thử xem có cách giải khác gọn hơn, hay hơn không? 4/ Áp dụng phương pháp dạy giải bài toán có lời văn : Đối với dạng toán này thì có các dạng bài nổi bật sau: Giúp học sinh nhận biết 2 dạng toán " tổng tỷ" và " hiệu tỷ". Giáo viên có thể giúp học sinh nhận biết 2 dạng toán này bằng các bước: Bước 1: cho học sinh đọc kỹ đề, phân tích ( gạch chân) Bước 2: xác định tỷ số Bước 3: giúp học sinh vẽ sơ đồ đoạn thẳng có các số phần bằng nhau. Phân tích sơ đồ đoạn thẳng giúp học sinh nắm vững số bé bao nhiêu phần, số lớn bao nhiêu phần. Để giúp học sinh nhân biết vấn đề trên, giáo viên cần phải hình thành: + Học sinh nắm vững và so sánh 2 sơ đồ ( tổng tỉ, hiệu tỉ) khác nhau ở điểm nào Ví dụ: ? trang Sơ đồ 1: An: 80 trang Minh: ? trang ? trang Sơ đồ 2: An: 60 trang Minh: ? trang Giáo viên cho học sinh nhận dạng được 2 sơ đồ có sự khác nhau ở chỗ: + Sơ đồ 1: tổng của 2 đoạn thẳng biểu diễn trên sơ đồ là 80 trang. An bằng Minh hoặc ( Minh hơn An 3 lần) + Sơ đồ 2: 2 đoạn thẳng được biểu diễn, chia đều số phần trên mỗi đoạn. Biết được sự hơn kém giữa đoạn này và đoạn kia ( hoặc ít hơn, nhiều hơn) Từ những giải pháp trên, học sinh sẽ vẽ được trên sơ đồ, tìm được tổng số phần, hoặc hiệu số phần của 2 dạng toán trên. Từ đó, học sinh sẽ giải toán trên một cách dễ dàng. * KẾT QUẢ: Sau khi nghiên cứu và thực hiện đề tài trên trong giảng dạy trong năm học tôi đã thu được kết quả như sau: Số học sinh Tóm tắt bài toán Chọn và thực hiện đúng phép tính Lới giải và đáp số Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ % 35 34 97,1 1 2,9 33 94,3 2 5,7 33 94,3 2 5,7 Như vậy rèn cho các em có phương pháp học là biện pháp tốt nhất của người làm công tác giáo dục. IV/ Kết luận 1/ Tóm lược giải pháp Để có kết quả giảng dạy tốt đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình và có phương pháp giảng dạy tốt. Có một phương pháp giảng dạy tốt là một quá trình tìm tòi, học hỏi và tích lũy kiến thức, kinh nghiệm của bản thân mỗi người. Là người giáo viên được phân công giảng dạy khối lớp 4. Chúng tôi nhận thấy việc tích luỹ kiến thức cho các em là cần thiết, nó tạo tiền đề cho sự phát triển trí thức của các em "cái móng" chắc sẽ tạo bàn đạp và đà để tiếp tục học lên lớp trên và hỗ trợ các môn học khác. 2/ Bài học kinh nghiệm Muốn việc dạy học của thầy và trò được nâng lên việc nghiên cứu đổi mới là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, vì thế thông qua việc giảng dạy và hướng dẫn HS học tập tôi rút ra được những bài học cho bản thân. Người giáo viên phải yêu nghề mến trẻ, có tâm huyết với nghề, luôn trau dồi kinh nghiệm cho bản thân, luôn luôn học hỏi ở các đồng nghiệp, đặc biệt phải có óc sáng tạo, tìm tòi, nghiên cứu, áp dụng các phương pháp đổi mới phương pháp dạy học để có kết quả cao. - Giáo viên là người hướng dẫn, còn học sinh là những người thợ. - Giáo viên phải nắm vững các yêu cầu bài dạy. - Giáo viên phải có sự chuẩn bị, nghiên cứu rất kĩ đồng thời phải có một phương pháp truyền thụ cho HS để HS suy nghĩ, quan sát để nêu ra những ý kiến sát thực với nội dung bài học. - Giáo viên phải chủ động sáng tạo, trong việc đổi mới các phương pháp dạy học theo từng nội dung, từng môn học theo nhận thức của HS. - Thầy trò phải có quan hệ hỗ trợ lẫn nhau để HS tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự nhiên - Phân chia được đối tượng học sinh để có kế hoạch cụ thể trong việc bồi dưỡng và phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS - Tạo điều kiện để HS hứng thú, tự tin phát triển năng lực cá nhân của mỗi em. 3/ Đề xuất, kiến nghị a. Đối với nhà trường b. Đối với giáo viên - Giáo viên phải chuẩn bị bài thật kĩ trước khi đến lớp, tìm ra các phương pháp đổi mới phù hợp với bài học, phù hợp với trình độ HS. Tạo sự thu hút lôi cuốn HS tập trung nghe giảng, kích thích tư duy sáng tạo, không khí học tập sôi nổi - Về phía HS Cần ý thức được nhiệm vụ học tập, Học sinh phải tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, và tự tin. Trách nhiệm của học sinh là phát hiện, chiếm lĩnh và vận dụng. Vì thế các em phải chủ động để đem lại kết quả cao trong học tập. Tân An 5 ngày: 10/11/2011 Người viết Võ Hoàng AnhMột Vài Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 4 Giải Tốt Dạng Toán Có Lời Văn
1. Tên đề tài :
MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TỐT DẠNG TOÁN CÓ LỜI VĂN 2. Đặt vấn đề :
a) Tầm quan trọng của vấn đề :
Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn. Đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức được thế giới xung quanh, hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
Trong chương trình môn Toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán, các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.
Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh.
Việc dạy giải toán có lời văn là một bộ phận quan trọng trong chương trình toán tiểu học, là một công việc hàng ngày của GV và HS. Những bài toán được giải theo những yêu cầu riêng của đề bài, tạo điều kiện cho HS suy nghĩ để giải đúng. Thông qua việc dạy giải toán có lời văn sẽ giúp các em phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và làm việc một cách khoa học. Bởi vì khi giải toán, HS phải biết tập trung chú ý vào bản chất của đề toán, phải biết gạn bỏ những cái thứ yếu, biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích để tìm ra những đường dây liên hệ giữa các số liệu…. Nhờ đó mà đầu óc các em sáng suốt hơn, tinh tế hơn, tư duy của các em sẽ linh hoạt hơn, chính xác hơn. Cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa học hơn. Việc giải toán còn đòi hỏi HS phải tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính và kiểm tra lại kết quả. Do đó giải các bài toán có lời văn là cách tốt nhất để rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận chu đáo, tính chính xác cho HS. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt…, góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khó của học sinh.
Vì những tác dụng to lớn nói trên mà mỗi HS đều phải ra sức rèn luyện để giải toán cho tốt. Điều đó không những giúp các em học giỏi toán mà nó còn giúp các em học giỏi tất cả các môn học khác.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 4, tôi nhận thấy việc HS học toán và giải toán có lời văn đạt chất lượng chưa cao. HS còn lúng túng trong việc xác định và tóm tắt đề toán, đặt lời giải chưa sát với yêu cầu của đề…
Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài : MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TỐT DẠNG TOÁN CÓ LỜI VĂN để nghiên cứu và thực hiện trong năm học này.
b) Giới hạn đề tài :
* Đối tượng nghiên cứu : Học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Số 1 Duy Vinh.
* Phạm vi nghiên cứu : Chương trình Toán lớp 4, trọng tập là hai dạng “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” và “Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó”
3. Cơ sở lí luận :
Trong hệ thống giáo dục có một bậc học được coi là nền móng đó là bậc Tiểu học. Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
Trong việc giảng dạy các môn học theo quy định của Bộ GD & ĐT, môn học nào cũng quan trọng, nó có tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Trong các môn học đó, môn Toán là một môn học có vị trí quan trọng. Đặc biệt là việc giải toán có lời văn, bởi lẽ giải các bài toán có lời văn sẽ có tác dụng to lớn và giáo dục toàn diện như : Củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học, đo lường, yếu tố đại số, các yếu tố hình học đã được học trong môn Toán tiểu học. Hơn thế nữa, phần lớn các biểu tượng, khái niệm, quy tắc, tính chất toán học ở tiểu học đều được học sinh tiếp thu qua con đường giải toán. Bởi vậy, việc giải các bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng có một tầm quan trọng rất lớn.Qua kết quả học tập về giải toán có lời văn của học sinh từ những năm học trước, từ đầu năm học 2011-2012 , tôi đã chú ý tìm hiểu về khả năng giải toán có lời văn của học sinh, tôi nhận thấy còn không ít em học chưa tốt về dạng toán này. Từ những hạn chế tâm lí lứa tuổi, từ tình hình nhận thức của học sinh trong lớp, tôi luôn trăn trở tìm cách cải tiến phương pháp dạy bộ môn Toán.
4. Cơ sở thực tiễn :
Với lòng say mê tìm tòi học tập cộng với sự yêu thích môn Toán đã hướng tôi đến với đề tài này. Hơn nữa trong quá trình dạy học, tôi thấy phần giải toán có lời văn chiếm thời gian tương đối nhiều nhưng thực tế việc dạy và học giải toán có lời văn vẫn chưa đạt được kết quả cao. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán, vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức.
Đối với nhận thức của học sinh tiểu học nói chung, của lớp tôi nói riêng, đa số các em giải toán có lời văn còn yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là do các em thường vội vàng hấp tấp, đơn giản hoá vấn đề, đôi khi chưa hiểu rõ đề bài nên dẫn đến kết quả nhiều lúc bị sai, thiếu hoặc đúng nhưng chưa đầy đủ.
Bên cạnh đó, cũng còn một nguyên nhân quan trọng nữa là tâm lý lứa tuổi. Các em thích giống bài của bạn, không tin tưởng vào bài của chính mình nên dẫn đến những sai sót giống nhau. Thậm chí có khi làm bài đúng rồi nhưng lại bỏ đi, chụp lại sao cho giống của bạn. Đây là do các em thiếu cơ sở lí luận, không tự tin vào khả năng của mình.
Trong những năm dạy học ở trường tiểu học, có một vấn đề khiến tôi phải trăn trở băn khoăn và suy nghĩ rất nhiều đó là làm thế nào khắc phục được tình trạng học sinh trong cùng một lớp nhưng trình độ nhận thức lại không đồng đều. Cùng một vấn đề do giáo viên đưa ra, có em nắm bắt rất nhanh, say sưa hứng thú bắt tay ngay vào việc tìm hiểu và giải quyết vấn đề nhưng cũng có em thì ngồi đó với tâm trạng hờ hững do không nắm được bản chất của vấn đề, sinh ra chán nản, hiệu quả giảm sút rất nhiều. Một số em rất lại hấp tấp, vội vàng, chưa nghiên cứu, chưa đọc kĩ đề bài đã vội đưa ra lời giải hoặc thích làm giống bạn vì sợ mình làm sai nên dẫn tới việc nhiều bài làm sai giống nhau. Đó là một thực tế mà người giáo viên đứng lớp ai cũng gặp phải, nhất là trong quá trình dạy giải toán có lời văn. Chính vì vậy mà tôi đã đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu để giải quyết vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, giúp các em có kĩ năng khi giải toán có lời văn.
5. Nội dung nghiên cứu : a) Biện pháp 1 : Khảo sát học sinh ngay từ đầu năm, phân loại đối tượng học sinh để có biện pháp rèn kĩ năng giải toán có văn cho học sinh.
Muốn học sinh giải toán có lời văn tốt, trước hết tôi tìm hiểu rõ tình trạng của học sinh mình như thế nào ? Học sinh yếu ở những mặt nào ? Mức độ yếu của học sinh ra sao ?
Do đó, ngay đầu năm học, tôi tiến hành điều tra, khảo sát, đàm thoại với các em. Tôi đã nhận thấy ngoài một số em làm bài tốt, vẫn còn có em viết lời văn chưa thành thạo, một số em giải toán nhưng không hiểu rõ bản chất của bài toán nên dẫn tới những sai sót rất đáng tiếc : Sai lời giải bài toán, làm sai phép tính nên dẫn tới kết quả, đáp số sai. Một số học sinh không kiểm tra lại bài giải dẫn đến lời giải phép tính đúng nhưng kết quả sai. Qua bài Khảo sát chất lượng đầu năm, tôi nhận thấy chất lượng của học sinh về giải toán có lời văn chưa cao.
Từ đầu năm học 2011-2012, qua một thời gian thực tế giảng dạy và qua khảo sát, tôi nhận thấy kết quả học tập của các em chưa cao.
Nguyên nhân : * Chủ quan :
+ Đối với học sinh :
– Nhận thức của HS chưa đồng đều.
– Việc xác định đề toán của các em chưa thành thạo.
– Một số em còn chủ quan, chưa đọc kĩ đầu bài.
+ Đối với giáo viên :
– Việc giảng dạy của GV đôi khi chưa phát huy hết được tính tích cực, chủ động sáng tạo của các em.
– Trong quá trình tổ chức cho HS thực hành giải toán có những lúc chưa thật sự linh hoạt.
Khách quan :
– Vốn Tiếng Việt của một số em còn hạn chế nên nhiều khi việc hiểu nghĩa của từ trong toán học đối với các em là rất khó, dẫn đến học sinh trả lời không chính xác.
– Một số phụ huynh không quan tâm đến việc học hành của con cái, phó thác cho giáo viên.
Đó là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hướng dẫn HS giải các bài toán ở dạng toán có lời văn.
b) Biện pháp 2 : Nắm chắc nội dung chương trình môn toán lớp 4.
Môn Toán lớp 4 được Bộ GD & ĐT ban hành và quy định để thực hiện trong cả nước, mỗi tuần 5 tiết x 35 tuần = 175 tiết. Chương trình giải toán có lời văn ở lớp 4 được chú trọng vào các dạng điển hình sau :
+ Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó.
+ Tìm số trung bình cộng.
+ Tìm phân số của một số.
+ Tìm 2 số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của 2 số đó.
+ Giải bài toán về đại lượng tỉ lệ, hình học.
Các dạng toán được bố trí đan xen với các bài toán về số học, vì thế tôi phải nắm chắc chương trình để nghiên cứu SGK, SGV, tài liệu tham khảo nhằm xây dựng kế hoạch bài dạy phù hợp với đối tượng HS để lên lớp đạt được hiệu quả cao.
c) Biện pháp 3 : Từ cơ sở trên, tôi đề ra hướng giải quyết vấn đề : Giúp học sinh hình thành kĩ năng, kĩ xảo, nắm được phương pháp chung về “giải toán có lời văn”.
Thường xuyên cho học sinh đọc đề bài nhiều lần trước khi làm bài, từ đó các em hình thành thói quen đọc kỹ đề bài trước khi giải. Trong quá trình giải, chữa bài tập toán ở nhà, vở bài tập in, khi giải toán có lời văn, tôi thường xuyên cho học sinh tóm tắt. Trước khi tóm tắt thường hướng dẫn cho các em có cách tóm tắt bài bằng hệ thống các câu hỏi gợi mở, giúp học sinh nhận biết dạng toán điển hình.
Bước 2 : Phân tích bài toán.
Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp, gợi mở cho học sinh đi ngược từ câu hỏi của bài toán trở lại điều kiện của đầu bài đã cho.
Bước 3: Giải bài toán.
Từ hai bước trên, giúp học sinh hiểu kỹ đầu bài, từ đó học sinh định hướng, tư duy và tìm ra cách giải bài toán đó.
Bước 4 : Thử lại kết quả.
Sau khi giải xong, cho các em thử lại kết quả. Bước này giúp học sinh có cơ sở lí luận, tin tưởng vào cách làm bài của mình.
Đối với HS yếu, tôi làm kĩ 2 bước đầu để HS hiểu rõ bản chất của đề bài, có như vậy các em mới làm tốt được bài toán đã cho.
Đối với học sinh khá, giỏi nếu chúng ta chỉ dừng ở 4 bước trên thì mới chỉ giúp học sinh tìm được lời giải và đáp số của từng bài tập cụ thể mà chưa hề rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Do đó sau khi học sinh luyện tập thành thạo 4 bước, tôi cho học sinh có thói quen làm tiếp một bước nữa đó là khai thác và phát triển bài toán : Đây chính là bước rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo của học sinh, bởi vậy sau khi học sinh giải xong bài toán và thử lại đúng kết quả, tôi hướng dẫn học sinh : cách giải khác và từ bài toán này có thể đặt ra các bài toán khác như thế nào ? Việc đi sâu vào tìm hiểu nhiều cách giải khác nhau có vai trò rất lớn trong việc rèn kĩ năng, củng cố kiến thức, phát triển trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Trong khi cố gắng tìm ra các cách giải khác nhau, học sinh hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Học sinh sẽ lựa chọn được cách giải hay hơn và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm để giải toán. Biết tự đặt thêm bài toán mới là một biện pháp giúp học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đại lượng và những quan hệ bản chất trong mỗi bài toán. Từ đó mà học sinh hiểu bài sâu hơn rất nhiều.
Để hình thành cho học sinh có kĩ năng, kĩ xảo ” giải toán có lời văn ” theo bốn bước trên, đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện thường xuyên, liên tục.
d) Biện pháp 4 : Dạy tốt chương trình toán chính khoá – Hai dạng toán điển hình “Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó”.
Dạng bài toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” được dạy trong 4 tiết, ngay sau tiết “Giới thiệu tỉ số”. Trong đó 1 tiết bài mới và 3 tiết luyện tập. Với một dạng toán “rộng” như thế mà được học trong 4 tiết thì thật là quá ít. Chính vì vậy mà tôi đã giúp học sinh nắm được các bước giải dạng toán này như sau :
Đầu tiên, tôi giúp học sinh nắm chắc khái niệm “Tỉ số”. Đây là khái niệm mới, trừu tượng mà lại phát biểu theo nhiều cách nói khác nhau.
Ví dụ : Tỉ số của số bé và số lớn là
Số bé bằng số lớn
Số lớn gấp 3 lần số bé
Số bé kém số lớn 3 lần.
Chính vì vậy mà nhiều em khó nhận ra những cách nói trên là thể hiện tỉ số của hai số cần tìm nên dẫn đến giải sai bài toán.
* Dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”
+ Bước 1 : Vẽ sơ đồ minh họa bài toán
Học sinh biết dựa vào tỉ số của hai số để biết được mỗi số ứng với bao nhiêu phần, từ đó vẽ các đoạn thẳng biểu thị số lớn, số bé.
+ Bước 2 : Tìm tổng số phần bằng nhau
Lấy số phần của số bé cộng với số phần của số lớn.
+ Bước 3 : Tìm giá trị của một phần
Lấy tổng của hai số chia cho tổng số phần bằng nhau.
Lấy giá trị một phần nhân với số phần của số bé
+ Bước 5 : Tìm số lớn
Lấy giá trị một phần nhân với số phần của số lớn (hoặc lấy tổng hai số trừ đi số bé)
+ Bước 6 : Đáp số : Ghi cụ thể : Số bé ; Số lớn.
Lưu ý đối với học sinh : Có thể gộp bước 3 và bước 4 với nhau
Có thể tìm số lớn trước.
Ở 3 tiết luyện tập tiếp theo, tiếp tục giúp học sinh rèn luyện, củng cố các bước giải dạng toán này.
Bài toán
Lớp 1A có 35 học sinh, trong số đó số học sinh nữ bằng số học sinh nam. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu học sinh nữ, bao nhiêu học sinh nam.
Giáo viên hướng dẫn cách giải:
– Đọc kỹ đầu bài và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Học sinh nữ:
Học sinh nam:
– Nhìn sơ đồ để tìm mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết.
– Tìm phần tương ứng với 35 học sinh.
– Tìm số học sinh nam và số học sinh nữ.
Tổng số phần bằng nhau là:
3 + 4 = 7 phần
Giá trị một phần là:
35 : 7 = 5 (HS)
Số học sinh nam là:
5 x 4 = 20 (HS)
Số học sinh nữ là:
35 – 20 = 15 (HS)
Đáp số : 20 học sinh nam và 15 học sinh nữ.
Kiểm tra
14 + 20 = 35
15 : 20 =
Nếu học sinh không giải được như trên, tôi có thể giúp các em lập kế hoạch giải như sau :
Giáo viên
– Bài toán cho biết gì ?
– Bài toán yêu cầu gì ?
– Muốn biết được số học sinh nam và số học sinh nữ ta phải biết được giá trị mấy phần trước ?
– Muốn tìm giá trị một phần ta làm thế nào ?
– Làm thế nào để tìm số học sinh nữ ?
– Làm thế nào để tìm số học sinh nam ?
Học sinh
– Cho biết tổng số học sinh là 35.
Tỷ số giữa học sinh nữ và nam là
– Tìm số học sinh nam và học sinh nữ.
– Giá trị một phần.
– Lấy tổng số học sinh chia cho số phần.
– Lấy giá trị một phần nhân với số phần học sinh nữ.
– Lấy giá trị một phần nhân với số phần học sinh nam.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
– Không biểu diễn được sơ đồ đoạn thẳng.
– Không tìm được tổng số phần bằng nhau.
– Khi tìm số lớn và số bé không nhân với số phần.
Các bài tập dạng ” Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” thì có rất nhiều và cũng rất đa dạng, phong phú. Vì thế phải dạy trong nhiều tiết mới có thể hướng dẫn học sinh giải được kiểu bài này. Trong quá trình dạy, tôi đã cố gắng đưa ra nhiều kiểu bài tập từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Có như thế mới phát huy được tính sáng tạo, năng lực tư duy cho học sinh.
Sau mỗi buổi học, tiết học, tôi đưa ra một số bài tập cho học sinh tự luyện (có thể ở buổi chiều tăng tiết, ở nhà). Vì thế, hệ thống bài tập tự luyện tôi đưa ra phù hợp với đối tượng học sinh, nghĩa là vừa có kiểu tương tự đồng thời có sự sáng tạo.
* Kiểu bài “Ẩn tổng”
Bài 1: Tổng của hai số là số lớn nhất có hai chữ số. Tỉ số của hai số là . Tìm hai số đó
* Hướng dẫn giải:
– Số lớn nhất có hai chữ số là số nào ? (99)
– Vậy tổng của hai số cần tìm là bao nhiêu ? (99)
– Tỉ số cho ta biết điều gì ? (Số bé bằng số lớn, hay số bé được chia thành 4 phần bằng nhau thì số lớn có 5 phần như thế)
– Vẽ sơ đồ minh họa bài toán.
– Giải bài toán theo các bước đã học (hs tự giải)
Vì số lớn nhất có 2 chữ số là 99 nên tổng của hai số cần tìm là 99.
Ta có sơ đồ:
Số bé:
Số lớn:
Theo sơ đồ, tổng số phần bằng nhau là
4 + 5=9 (phần)
Số bé là : 99 : 9 x 4 = 44
Số lớn là : 99 – 44 = 55
Đáp số: Số bé: 44
Số lớn: 55
Bài 2: Một hình chữ nhật có chu vi là 120cm. Chiều rộng bằng chiều dài.Tính chiều dài, chiều rộng của hình đó.
* Hướng dẫn giải:
– Khi đã biết chu vi của hình chữ nhật là 120 cm thì tìm tổng 2 cạnh chiều dài và chiều rộng như thế nào? (tính nửa chu vi: 120 : 2= 60cm)
– Đối với bài toán này, tổng của 2 số ẩn trong câu “Một hình chữ nhật có chu vi là 120 cm”. Vì vậy ta phải tính nửa chu vi, tức là tính tổng độ dài của 2 cạnh chiều dài và chiều rộng.
– Vẽ sơ đồ minh họa bài toán.
– Giải theo các bước đã học.
Nửa chu vi hình chữ nhật là:
120 : 2 = 60 (cm)
Ta có sơ đồ:
Chiều dài:
Chiều rộng:
Tổng số phần bằng nhau là:
3 + 2 = 5 ( phần)
Chiều dài hình chữ nhật là:
60 : 5 x 3 = 36 (cm)
Chiều rộng là: 60 – 36 = 24 (cm)
Đáp số: Chiều dài : 36 cm
Chiều rộng : 24 cm
* Kiểu bài “Ẩn tỉ số”:
Ví dụ: Tổng 2 số là 760. Tìm 2 số đó biết rằng số thứ nhất bằng số thứ hai.
*Hướng dẫn giải:
Nói số thứ nhất bằng số thứ 2 thì có nghĩa là số thứ nhất được chia thành mấy phần ?
( Số thứ nhất được chia làm 3 phần , số thứ 2 được chia làm 5 phần như thế ).
Vậy tỉ số của số thứ nhất và thứ hai là bao nhiêu ? ( )
Bài toán này thuộc dạng gì ? ( Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó)
Trong bài toán này, dữ kiện “tỉ số” bị “ẩn”, vì vậy ta cần lập luận để tìm ra tỉ số của 2 số.
Vẽ sơ đồ minh họa cho bài toán
Giải theo các bước đã học .
Vì số thứ nhất bằng số thứ 2 nên số thứ nhất ứng với 3 phần còn số thứ hai ứng với 5 phần. Vậy tỉ số của số thứ nhất và thứ 2 là . Ta có sơ đồ :
Số thứ nhất :
Số thứ hai :
Theo sơ đồ tổng số phần bằng nhau là :
3 + 5 = 8 ( phần )
Số thứ nhất là : 760 : 8 x 3 = 285
Số thứ hai là : 760 – 285 = 475
Đáp số : Số thứ nhất : 285
Số thứ 2 : 475
* Dạng toán “Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó”
Đối với dạng toán này, tôi hướng dẫn các em nắm chắc các bước khi giải như sau :
+ Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.
+ Tìm hiệu số phần đoạn thẳng bằng nhau.
+ Tìm giá trị ứng với một phần đoạn thẳng.
+ Tìm số lớn, số bé.
Ví dụ : Bài toán
Mẹ hơn con 28 tuổi. Tìm tuổi mỗi người, biết tuổi mẹ gấp năm lần tuổi con.
Giáo viên hướng dẫn giải:
Đọc kỹ đầu bài và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Tuổi mẹ:
Tuổi con:
Tìm mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết dựa vào sơ đồ đoạn thẳng.
+ Tìm số phần tương ứng với 28 tuổi.
+ Tìm giá trị một phần (hay tuổi con)
+ Tìm tuổi mẹ.
Hiệu số phần bằng nhau là:
5 – 1 = 4 (phần)
Tuổi con là:
28 : 4 = 7 (tuổi)
Tuổi mẹ là:
28 + 7 = 35 (tuổi)
Đáp số : Mẹ 35 tuổi ; Con 7 tuổi.
Kiểm tra :
35 – 7 = 28 (tuổi)
35 : 5 = 7 (tuổi)
: (dành cho HS khá giỏi) : Cho HS phát triển bài toán
VD: Mẹ hơn con 28 tuổi. Tìm tuổi mỗi người, biết 3 năm trước đây tuổi mẹ gấp 5 lần tuổi con.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
– Không biểu thị được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, dẫn đến không tìm được hiệu số phần bằng nhau tương ứng với bao nhiêu.
– Lời giải còn lủng củng.
– Hay nhầm lẫn giữa tổng số phần và hiệu số phần bằng nhau.
– Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài.
– Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.
– Dựa vào sơ đồ đoạn thẳng để phân tích bài toán.
e) Biện pháp 5 : Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS.
Tôi luôn coi trọng việc kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kì về kết quả học tập của HS để nắm bắt kịp thời việc vận dụng, rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho các em. Từ đó phân loại HS theo trình độ để tự điều chỉnh về mục tiêu đối với từng bài dạy cụ thể cho phù hợp với các nhóm đối tượng HS lớp tôi phụ trách. Bên cạnh công tác kiểm tra, đánh giá HS tôi tự điều chỉnh về hình thức tổ chức dạy học, điều chỉnh về phương pháp dạy học sao cho kết quả các tiết dạy đạt được mục tiêu đã đề ra. Tôi luôn quan tâm, giúp đỡ những em HS có kết quả học tập môn Toán nói chung và giải toán có lời văn đạt kết quả chưa cao nói riêng để các em có hướng vươn lên. Sau khi dạy xong mỗi dạng toán, tôi tự ra đề khảo sát chất lượng học sinh để kiểm tra xem các em tiếp thu kiến thức vừa học như thế nào ? Kết quả khảo sát của HS sau khi đã học xong hai dạng toán Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) của hai số đó như sau :
Bài khảo sát ( Phụ lục 1 và phụ lục 2)
g) Biện pháp 6 : Giúp học sinh nắm vững một số kiến thức cần ghi nhớ
Trước và trong khi dạy dạng toán ” Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”, bằng hệ thống bài tập, tôi giúp học sinh nắm chắc một số kiến thức để áp dụng khi giải bài tập. Cụ thể :
+ Trung bình cộng của hai số là 15 thì tổng của hai số là 15 2 = 30 (Tức là tổng của hai số bằng trung bình cộng của hai số nhân với 2)
+ Tổng hai cạnh chiều dài và chiều rộng thì bằng nửa chu vi hình chữ nhật đó.
+ Nếu tăng (hay giảm) số này a đơn vị và giảm (hay tăng) số kia a đơn vị thì tổng của hai số sẽ không đổi.
+ Nếu tăng (hay giảm) một trong hai số a đơn vị thì tổng của hai số sẽ tăng (hay giảm) a đơn vị.
+ Nếu cả hai số cùng tăng (hay cùng giảm) a đơn vị thì tổng của hai số sẽ tăng (hay giảm) a 2 đơn vị.
+ Nếu tăng (hay giảm) số này a đơn vị và giảm (hay tăng) số kia cũng a đơn vị thì tổng của hai số sẽ không thay đổi.
h) Biện pháp 7 : Tổ chức các trò chơi toán học
Tổ chức cho HS tham gia các trò chơi học tập kết hợp trong các tiết dạy. GV phải xác định rõ kiến thức và kĩ năng của trò chơi. Chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn rõ ràng cách chơi, luật chơi, thực hiện đúng lúc với các trò chơi hợp lí, cân đối với các hoạt động của tiết dạy. Tổ chức các trò chơi trong toán học như : Tiếp sức, ai nhanh ai đúng, em làm giám khảo, ô số may mắn, ai thông minh hơn…
Thông qua việc tổ chức thành công các trò chơi, GV đã tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng, kích thích các hoạt động học tập của HS. Củng cố chắc chắn các kiến thức, kĩ năng cần đạt trong tiết dạy cho HS.
Ví dụ : Khi tôi muốn củng cố dạng toán “Tổng (hiệu) – tỉ” vừa học, tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi ” Ai nhanh, ai đúng “. Tôi đính bảng phụ có ghi bài toán : Tìm hai số, biết tổng của chúng là 60, số bé bằng số lớn. HS viết nhanh kết quả vào bảng con. Em nào viết đúng, nhanh thì được tham gia chơi tiếp. Tôi cứ tiếp tục cho các em chơi cho đến khi chọn được em xuất sắc nhất nhận phần quà của cô giáo thưởng.
Ví dụ : Trò chơi ” Em làm giám khảo “. Tôi đính bảng phụ có ghi sẵn nội dung bài tập và kèm theo một vài đáp án, sau đó tôi gọi 01 học sinh lên bảng chọn đáp án đúng cho bài toán. Các em dưới lớp dùng thẻ xanh, đỏ để chấm đúng, sai.(Nếu bạn làm đúng, các em đưa thẻ màu đỏ. Nếu bạn làm sai, các em đưa thẻ xanh.)
6. Kết quả nghiên cứu :
Sau một thời gian áp dụng nội dung và phương pháp mới cho dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó”, tôi nhận thấy kết quả học tập của các em đã được nâng lên rõ rệt. Từ chỗ học sinh giải những bài toán đơn giản còn chưa thạo đến nay đa số các em đã giải được những bài tập nâng cao cùng dạng.
Kết quả cho thấy đa số các em đều có ý thức làm bài. Điều quan trọng là khả năng phân tích, tổng hợp, khả năng suy luận lôgíc của các em đã được nâng lên.
Chính vì nhờ phát triển những khả năng tư duy như thế nên các em giải các dạng toán khác cũng nhanh hơn, dễ dàng hơn.
Với sự chỉ đạo của nhà trường, sự cố gắng của bản thân, sau khi thực hiện các giải pháp như trên, lớp của tôi có được những kết quả đáng khích lệ. Tôi thấy áp dụng phương pháp này phù hợp với mục tiêu của giáo dục tiểu học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh. Mọi học sinh đều có tiến bộ, tự tin hơn trước. Chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học toán, học sinh đã chiếm lĩnh được kiến thức rất tốt.
7. Kết luận :
Môn Toán ở lớp 4 trong chương trình tiểu học nói chung và giải toán có lời văn lớp 4 nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục tiểu học. Kĩ năng giải toán có lời văn ngày càng được hoàn thiện cũng chính là góp phần cho việc phát triển văn hoá của đất nước.
Chính vì vai trò quan trọng đó mà việc giải toán có lời văn cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có hệ thống trong suốt từng năm học, bậc học.
Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy dạng toán có lời văn ” Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số” tôi nhận thấy rằng để tiết dạy có kết quả tốt cần thực hiện tốt các giải pháp sau :
– Giáo viên phải tìm và thống kê các sai lầm của học sinh thường mắc phải khi học về giải toán có lời văn.
– Áp dụng các phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp, giúp các em khắc phục những sai lầm thường mắc phải khi học phần toán có lời văn dạng tỉ số.
– Củng cố khái niệm, quy tắc : so sánh, cộng, trừ, nhân, chia. Tăng cường luyện tập tạo thành kĩ năng trong giải toán cho học sinh, nhất là những học sinh yếu kém môn Toán.
– Phải giúp học sinh nắm vững các bước giải của hai dạng toán này.
– Giúp học sinh tìm hiểu kĩ đề bài : đọc đề nhiều lần, xác định dạng toán, lập luận để tìm ra dữ kiện bị ẩn, vẽ sơ đồ,…
– Những bài tập ra cho HS giải phải có hệ thống, tức là những bài tập đó được nâng cao, mở rộng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ quen đến lạ,… Bài tập sau phải dựa trên cơ sở của bài tập trước. Có như thế HS mới phát huy được tính sáng tạo, bồi dưỡng được năng lực, tư duy cho các em.
8. Đề nghị : a) Đối với nhà trường.
– Thường xuyên mở các chuyên đề về dạy toán đặc biệt là chuyên đề dạy giải toán có lời văn ở tất cả các khối lớp để giáo viên được đi dự giờ, tham khảo, học hỏi kinh nghiệm.
b) Đối với Phòng Giáo dục.
Tăng cường tổ chức các chuyên đề giảng dạy theo các cụm trường để giáo viên có dịp giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Chủ nhiệm đề tài
Đoàn Thị Kim Thu
9. Phụ lục
a) Phụ lục 1 : Bài khảo sát chất lượng học sinh về dạng toán : Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó
b) Phụ lục 2 : Bài khảo sát chất lượng học sinh về dạng toán : Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó
10. Tài liệu tham khảo
1. Tạp chí giáo dục tiểu học số 4 – 1999 về dạy giải toán có lời văn – Đặng Tự Ân
2. Tạp chí giáo dục tiểu học – PGS – PTS Đỗ Trung Hiệu
3. Các bài toán lý thú ở tiểu học – Tác giả : Trương Công Thành (Nhà xuất bản giáo dục)
4. Trình bày lời giải trong giải toán ở tiểu học – PTS Kiều Đức Thành
5. Giải bài toán tiểu học như thế nào – Tác giả: Phạm Đình Thục (Nhà xuất bản giáo dục)
6. Sách giáo khoa – Sách giáo viên Toán 4
Bạn đang đọc nội dung bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 2 Giải Toán Có Lời Văn trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!