Top 5 # Xem Nhiều Nhất Giải Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 8 Tập 2 Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Asianhubjobs.com

Soạn Bài Nhớ Rừng Sách Bài Tập Ngữ Văn 8 Tập 2

1. Em hãy liệt kê các từ ngữ trong các trường từ vựng :

– Miêu tả núi rừng hùng vĩ (đoạn 2, 3).

– Miêu tả con hổ chốn rừng thiêng (đoạn 2,3).

Qua đó, em có nhận xét gì về việc khai thác, sử dụng từ ngữ của tác giả ? Đặc biệt, việc sử dụng rộng rãi các từ Hán Việt ở các đoạn 2 và 3 đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật như thế nào ?

Trả lời:

Cần hiểu mục đích của bài tập nhằm thực hành về trường từ vựng.

– Muốn làm tốt được bài tập này, trước hết HS phải có những hiểu biết nhất định về trường từ vựng. (Trường từ vựng là tập hợp tất cả các từ có nét chung nào đó về nghĩa). Ở đây là các từ cùng miêu tả một đối tượng : cảnh “sơn lâm hùng vĩ” và hình ảnh “chúa sơn lâm”, cần lưu ý : một trường từ vựng có thể bao gồm nhiều trường từ vựng nhỏ hơn ; cùng một trường từ vựng có thể bao gồm những từ khác biệt nhau về từ loại ; một từ có thể thuộc nhiều trường từ vựng khác nhau ; trong diễn đạt, người ta thường dùng cách chuyển trường từ vựng để tăng thêm tính nghệ thuật của ngôn từ.

– Đọc kĩ bài thơ, từ đó liệt kê các từ ngữ thuộc trường từ vựng miêu tả núi rừng hùng vĩ ở các đoạn 2,3.

Ví dụ : sơn lâm, bóng cả, cây già, gió gào ngần, nguồn hét núi, lá gai, cỏ sắc hang tối, thảo hoa, đêm vàng, bờ suối ánh trăng, ngày mưa, bốn phương ngàn, giang sơn, bình minh, cây xanh, nắng gội, tiếng chim ca, sau rừng, mặt người,… Nét nghĩa chung : núi rừng hùng vĩ.

– Liệt kê các từ ngữ thuộc trường từ vựng miêu tả con hổ chốn rừng thiêng ở các đoạn 2,3.

Ví dụ : tung hoành, hống hách, bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, lượn tấm thân, vờn bóng, quắc, say mồi đứng uống ánh trăng tan, lặng ngắm, đợi chết, chiếm lấỵ,.:.

– Qua đó có thể nhận thấy, tác giả đã khai thác, sử dụng một vốn từ vựng phong phú, đa dạng và chọn lọc để diễn tả nổi bật cái lớn lao, mạnh mẽ, phi thường của cảnh núi rừng hùng vĩ và khắc hoạ đậm nét, đầy ấn tượng hình ảnh oai phong lẫm liệt của chúa sơn lâm.

– Đặc biệt, việc sử dụng rộng rãi các từ Hán Việt ở các đoạn 2, 3 đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật đáng kể : khắc hoạ sáng tạo, đầy ấn tượng sự cao cả, lớn lao, phi thường và bi ữáng. So với từ thuần Việt đồng nghĩa, từ Hán Việt thường có sắc thái trang trọng, mĩ lệ và có sức gợi cảm riêng.

2. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ : “Đọc đôi bài, nhất là bàỉ Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được.” (Thi nhân Việt Nam)

Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Theo em, “đội quân Việt ngữ” mà Hoài Thanh nói đến có thể gồm những yếu tố gì ?

Trả lời:

Cần hiểu cách diễn đạt hình ảnh của Hoài Thanh :

– Khi nồi “tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức manh phi thường” là Hoài Thanh muôn khẳng định mạch cảm xúc sôi trào mãnh liệt chi phối mạnh mẽ việc sử dụng câu chữ trong bài thơ của Thế Lữ. Đây chính

là một trong những đặc điểm tiêu biểu của bút pháp lãng mạn và cũng là yếu tố quan trọng tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài Nhớ rừng.

– Khi nói “Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được” tức là nhà phê bình khẩng định tài năng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt) một cách chủ động, linh hoạt, phong phú, chính xác và đặc biệt hiệu quả để có thể biểu đạt tốt nhât nội dung của bài thơ.

– “Đội quân Việt ngữ” có thể bao gồm nhiều yếu tố như : từ ngữ (ở đây là những từ ngừ diễn tả mạnh mẽ, đầy gợi cảm, giàu chất tạo hình như khi đặc tả cảnh sơn lâm hùng vĩ, gây cho người đọc ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp vừa phi thường tráng lệ, vừa thơ mộng), các cấu trúc ngừ pháp, nhịp điệu và nhạc điệu phong phú, giàu sức biểu cảm (âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt – có câu nhịp rất ngắn, có câu lại trải dài phù hợp với cảm xúc). Điều này có thể nhận thấy rõ nhất qua đoạn 2 vầ 3 của bài thơ miêu tả cảnh núi rừng hùng vĩ và hình ảnh con hổ trong giang sơn mà nó ngự trị.

3. Theo em, vì sao con hổ không chỉ bực bội vì bị nhốt trong cũi sắt, mà còn bực bội, chán ghét toàn bộ cảnh vật ở vườn bách thú (được miêu tả ở đoạn 1 và đoạn 4) ?

Trả lời:

Con hổ đúng là không chỉ bực bội vì bị nhốt trong cũi sắt (mất tự do) mà còn bực bội, chán ghét toàn bộ cảnh vật ở vườn bách thú (được miêu tả kĩ ở đoạn 1 và đoạn 4) ; vì : dưới con mắt của chúa sơn lâm, những thứ ở vườn này đều nhỏ bé, đơn điệu, đều tầm thường, tháp kém, giả tạo (bọn gấu dở hơi, cặp báo vô tư lự; những cảnh không đời nào thaỵ đổi ; Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng – Dải nước đen giả suối chẳng thông dòng – Len dưới nách những mô gò thấp kém – Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm..). Chúa sơn lâm không chấp nhận chung sống với những cái phàm tục, giả dối, thấp hèn đó.

Hổ khao khát trở về rừng xưa không những để được tự do, mà còn để được về với cái siêu phàm, kì vĩ, đối lập với những cái hiện có ở vườn bách thú. Đây chính là một trong những đặc điểm của tâm hồn lãng mạn : chán ghét thực tại tù túng, tầm thường, khát khao mãnh liệt sự tự do, luôn hướng tới cái lớn lao, phi thường, siêu phàm.

4. SGK Ngữ văn 8, tập hai, có nhận xét : Bài Nhớ rừng “tràn đầy cảm xúc lãng mạn”.

Em hiểu thế nào là “lãng mạn” ? Cảm xúc lãng mạn được thể hiện trong bài thơ như thế nào ?

Trả lời:

Bài Nhớ rừng đúng là tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Hiểu một cảch đơn giản, đặc điểm nôi bật của tâm hồn lãng mạn là giàu mộng tưởng, khát vọng và giàu cảm xúc. Người nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cảm thấy bất hoà sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, ngột ngạt, xâu xa đương thời ; nhưng vì bất lực, họ chỉ biết tìm cách thoát li khỏi thực tại ấy bằng mộng tưởng và bằng sự đắm chìm vào đời sống nội tâm tràn đầy cảm xúc. Tâm hồn lãng mạn ưa thích sự độc đáo, phi thường, ghét khuôn khổ, gò bó và sự tầm thường. Nó có hứng thú giãi bày những cảm xúc thiết tha mãnh liệt, nhất là nỗi thất vọng, buồn đau. Cảm xúc lãng mạn trong bài Nhớ rừng được thể hiện khá rõ qua các khía cạnh sau :

– Hướng về thế giới mộng tưởng lớn lao, phi thường, tráng lệ bằng một cảm hứng sôi trào mãnh liệt. Thế giới ây hoàn toàn đối lập với thực tại tầm thường giả dối. Trong bài Nhớ rừng, thế giới mộng tưởng chính là cảnh đại ngàn hùng vĩ và kèm theo đó là hình ảnh oai hùng của chúa sơn lâm (tập trung ở đoạn 2, 3 và 5 của bài thơ) ; còn cảnh vườn bách thú với hình ảnh chiếc cũi sắt chính là biểu hiện của thực tại tù túng, tầm thường, đáng ghét.

– Diễn tả thấm thía nỗi đau uất hận của con hổ, từng là chúa sơn lâm tung hoành nơi rừng thiêng đại ngàn, nay phải nằm dài bất lực trong cũi sắt ở vườn bách thú vô cùng chán ngán. Hình ảnh con hổ với tâm sự đau uất mang tính chất bi tráng đó là một biểu tượng đầy nghệ thuật, được diễn tả bằng những vần thơ sôi nổi, da diết, đã thể hiện đầy đủ cảm xúc lãng mạn của nhà thơ.

Soạn Bài Câu Phủ Định Sách Bài Tập Ngữ Văn 8 Tập 2

Trả lời:

Trước hết phải căn cứ vào đặc điểm hình thức (từ ngữ phủ định) để biết được câu nào là câu phủ định. Sau đó xét xem trong số những câu phủ định này, câu nào nhằm để phản bác lại một ý kiến, một nhận định trước đó (bao giờ cũng giả định trước đó có một ý kiến, một nhận định ngược lại).

2. Bài tập 2, trang 53 – 54, SGK. Trả lời:

– Cả 3 câu (a), (b), (c) đều có những từ ngữ phủ định, như không trong (a) và (b), chẳng trong (c). Nhưng những câu phủ định này có điểm đặc biệt là có một từ ngữ phủ định kết hợp với một từ ngữ phủ định khác (như trong (a) : không phải là không) hay kết hợp với một từ ngữ nghi vấn (như trong (c) : ai chẳng), hoặc kết hợp với một từ ngữ phủ định khác và một từ ngữ bất định (như trong (b) : không aỉ không). Có thể so sánh ý nghĩa của câu Nó không phải là không giỏi với Nó không phải là giỏi để biết được ý nghĩa của câu thứ nhất là khẳng định hay phủ định. Từ đó áp dụng cách làm này đối với những câu khác.

– Những câu không có từ ngừ phủ định mà có ý nghĩa tương đương, ví dụ :

Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu chuyện hoang đường, song có ý nghĩa (nhất định).

Có thể so sánh ý nghĩa của 2 câu Nó không phải là không giỏi và Nó giỏi dễ thấy được ý nghĩa của chúng tuy tương đương nhưng không hoàn toàn giống nhau.

3. Bài tập 3, trang 54, SGK. Trả lời:

So sánh chưa và không để có câu trả lời thích hợp.

Chưa biểu thị ý phủ định đối với điều mà cho đến một thời điểm nào đó không có, nhưng sau thời điểm đó có thể có. Còn không cũng biểu thị ý phủ định đối với một điều nhất định, nhưng không có hàm ý là về sau có thể có. Khi không kết hợp với nữa thì cả tổ hợp biểu thị ý phủ định một điều vào một thời điểm nào đó và kéo dài mãi. So sánh : Nó chưa đi học nhạc và Nó không đi học nhạc nữa ; Anh ấy chưa lập gia đình và Anh ấy không lập gia đình nữa.

4. Bài tập 4, trang 54, SGK. Trả lời:

Hãy tìm xem trong những câu này có từ ngữ phủ định không để trả lời câu hỏi thứ nhất. Sau đó hình dung xem chúng có thể được dùng trong những tình huống giao tiếp như thế nào để trả lời câu hỏi thứ hai và thứ ba.

5. Bài tập 5, trang 54, SGK. Trả lời:

Phân tích ý nghĩa của từ quên để xét khả năng thay thế nó bằng từ không. Quên ở đây có nghĩa là “không nghĩ đến, không để tâm đến”, về sự khác nhau giữa chưa và chẳng, xem gợi ý ở bài tập 3.

6. Bài tập 6, trang 54, SGK. 7. Tìm câu phủ định và câu kiểu khác được dùng để thể hiện ý nghĩa phủ định trong những đoạn trích sau :

a) Không ! Lão Hạc ơi ! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu ?

(Nam Cao, Lão Hạc)

b) – Tháng này việc của mày bở đấy. Đã hỏi tiền canh đám chưa ?

– Nào ai đã hỏi vào lúc nào dược ? (Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

c) Thực sự mẹ không lo lắng đến nỗi không ngủ được. Mẹ tin đứa con của mẹ lớn rồi. Mẹ tin vào sự chuẩn bị râ’t chu đáo cho con trước ngày khai trường. Còn điều gì để lo lắng nữa đâu ? Mẹ không lo, nhưng vẫn không ngủ được.

(Theo Lý Lan, Cổng trường mở ra)

Giải:

Để biết được trong số những câu không phải là câu phủ định, câu nào dùng để thể hiện ý nghĩa phủ định thì phải xét xem những câu đó thực sự dùng để làm gì, có thể diễn đạt lại bằng một câu phủ định hay không.

8. Tìm câu phủ định trong đoạn trích sau đây : Và thế là Điền có bốn cái ghế mây. Điền không biết giá. Nhưng Điền đoán chừng mua mới thì cũng đắt. Bây giờ, có khỉ mỗi chiếc tới ba bốn đồng. Ba bốn đồng một chiếc ! Thế là cả bộ đáng giá ngót hai chục bạc. Xóm Điền cũng chả nhà nào có những đồ đạc đắt tiền như thế. Vợ Điền quý lắm. Thị rất xót xa khi thấy những ông khách cục súc, sau khi đã nắc nỏm khen bộ ghế vừa đẹp vừa thanh, liền đặt cái mông đít to bành bạnh như cái vại lên mặt ghế khiến những sợi may lún xuống, rồi co cả hai chân bẩn thỉu, ngả cái lưng to như lưng trâu tựa vào vành ghế khiến cái vành ghế phải oải hẳn về đằng sau. Như thế phỏng còn gì là ghế? Có mà ghế sắt củng phải hỏng, đừng nói gì ghế mây !…

(Nam Cao, Trăng sáng)

Trả lời:

Cần dựa vào các dấu hiệu của câu phủ định (chẳng hạn, chứa các từ không, chả,…) để tìm đúng các câu phủ định trong đoạn trích.

Ví dụ : – Điền không biết giá.

9. Đọc ba câu sau đây và cho biết từ phủ định “không phải” có thể đứng ở đâu trong câu tiếng Việt ?

– Không phải ông ấy mua cuốn sách này.

– Ông ấy không mua cuốn sách này.

– Ông ấy mua không phải cuốn sách này.

Giải:

Từ phủ định “không phải” có thể đứng ở nhiều vị trí khác nhau trong câu Tiếng Việt.

Soạn Bài Ôn Tập Phần Văn Học Sách Bài Tập Ngữ Văn 11 Tập 2

Thơ mới khác với thơ trung đại như thế nào?

Trả lời:

Thơ mới khác với thơ truyền thống (thơ trung đại) không chỉ ở “phần xác” của thơ, mà chủ yếu là ở “phần hồn” của nó, hay nói như Hoài Thanh là ở “tinh thần thơ mới” (Một thời đại trong thi ca). Đó là “cái tôi” cá nhân vói cách nhìn con người, cuộc đời và thiên nhiên bằng đôi mắt xanh non, bằng cặp mắt biếc ròn (Xuân Diệu). Đó là cách nhìn đời bằng đôi mắt trẻ trung, tươi mới, ngơ ngác trước thiên nhiên và cuộc sống, đồng thời thấm đượm một nỗi buồn cô đơn, bơ vơ giữa cuộc đời, trước không gian mênh mông và thời gian vô tận. Thơ mới khác thơ trung đại không chỉ ở phương diện nghệ thuật (phá bỏ những lối diễn đạt ước lệ, những quy tắc cứng nhắc, những công thức gò bó,…) mà chủ yếu ở phương diện nội dung (cách nhìn, cách cảm nhận mới mẻ đối với con người và thế giới). Lời thơ trong thơ mới được tổ chức gần với chuỗi lời nói của cá nhân khác với lời thơ trong thơ trung đại, do bị tính quy phạm chi phối, nên thường nặng tính ước lệ, cách điệu,…

2. Làm rõ tính chất giao thời (giữa văn học trung đại và văn học hiện đại) của các bài thơ Lưu biệt khi xuất dưong (Phan Bội Châu) và Hầu Trời (Tản Đà).

Ở các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương ( Phan Bội Châu), Hầu Trời (Tản Đà), nội dung cảm xúc đã có những nét mới, nhưng thể thơ, thi pháp cơ bản vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại.

– Nội dung cảm xúc của bài Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu đã cố những nét mới: lẽ sống mới, quan niệm mới về chí làm trai, ý thức cá nhân trước thời cuộc, khát vọng hành động và tư thế buổi lên đường,… Nhưng thể thơ vẫn là thể thơ cũ (thất ngôn bát cú), niêm, luật và ngôn ngữ vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại.

– Bài Hầu Trời của Tản Đà mới hơn so với Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu. Trong bài thơ Hầu Trời đã thấy xuất hiện một “cái tôi” cá nhân phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình. Qua Hầu Trời, Tản Đà cũng bộc lộ một quan niệm khá hiện đại về nghề văn. Cách chia khố thơ như vậy cũng chưa thấy trong thơ trung đại… Nhưng “cái tôi” cá nhân phóng túng của Tản Đà vẫn phảng phất tinh thần cái “ngông” ở nhà nho tài tử của thơ ca cuối thời trung đại kiểu Nguyễn Công Trứ, Tú Xương. Vì vậy, bài Hầu Trời chưa thực sự hiện đại, vẫn chưa phải là thơ mới.

3. Hãy chỉ ra tính chất hiện đại của các bài thơ mới: Vội vàng (Xuân Diệu), Tràng giang (Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Tương tư (Nguyễn Bính).

Trả lời:

Giai đoạn khoảng từ năm 1930 đến năm 1945, nền văn học nước nhà đã hoàn tất quá trình hiện đại hoá với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi thể loại. Phong trào Thơ mới (được khơi lên từ năm 1932) được xem là “một cuộc cách mạng trong thơ ca” (Hoài Thanh). Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vì Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính,… là những bài thơ rất tiêu biểu, thể hiện rất rõ những đặc trưng của thơ mới. Các bài thơ trên không hề có dấu vết của thi pháp thơ trung đại. Đó là tiếng nói nghệ thuật của “cái tôi” cá nhân tự giải phóng hoàn toàn ra khỏi hệ thống ước lệ của thơ ca trung đại, trực tiếp quan sát thế giới và lòng mình bằng con mắt của cá nhân, đồng thời cảm thấy bơ vơ, cô đơn trước vũ trụ và cuộc đời. Ngôn ngữ thơ được tổ chức gần với lời nói thường ngày,…

4. Dựa vào một số bài thơ đã học (đọc) trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, hãy chứng minh nhận định của nhà vãn Hoài Thanh: “Nhật kí trong tù là một tiếng nói chan chứa tình nhân đạo” (Đọc “Nhật kí trong tù”, NXB Tác phẩm mói, Hà Nội, 1977).

Để làm tốt bài tập này, cần chú ý một số điểm chính sau đây:

(1) Chủ đề của bài là tính nhân đạo. HS cần xác định rõ hàm nghĩa nhân đạo, không nên lạc sang nội dung lòng yêu nước (thiếu sót này thường gặp trong bài làm của HS, có khi do không nắm được các biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo một cách chắc chắn, cũng có khi do không có khả năng triển khai được các phương diện của chủ nghĩa nhân đạo nên đành nói về lòng yêu nước để bài làm có thêm nội dung nhưng vô hình trung đã đi lạc đề).

(2) Đây là kiểu bài chứng minh. Nhưng muốn chứng minh được đầy đủ phải nắm được các biểu hiện của tính nhân đạo để tập hợp ý và dẫn chứng cho sát, đúng

(3) Về nội dung, tính nhân đạo trong Nhật kí trong tù, nên chú ý đến mấy khía cạnh chính sau đây:

a) Lòng thương cảm đối với số phận con người

– Đối tượng thương yêu của Hồ Chí Minh qua Nhật kí trong tù thật rộng rãi: Là một người tù hôm qua còn sống hôm nay đã chết (Một người bạn tù cờ bạc ; Lại một người nữa), là một em bé trong nhà lao Tân Dương (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương), là vợ người bạn tù bên ngoài cửa sắt (Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng),…

– Nhạy cảm với những khổ đau, bất hạnh của mọi kiếp người, trong khi chính mình đang bị đày đoạ cơ cực:

+ Nỗi khổ của em bé phải sớm vào nhà lao ;

+ Nỗi đau của đôi vợ chồng bị ngăn cách bởi cánh cửa sắt nhà tù ;

+ Lòng cảm thông, nồi thương nhớ của người thiếu phụ xa chồng ;

+ Cái chết thảm thương của người tù trong nhà lao ;

+ Nỗi vất vả của người phu làm đường (Phu làm đường) ;

+ Cảm thông với người bạn tù chạy trốn (Anh ấy muốn trốn) ;

+ Niềm tin tưởng vào bản chất lương thiện của con người (Nửa đêm) ;

+ Tâm lí nhạy cảm với con người trong từng suy nghĩ, từng niềm vui và nỗi khổ (Niềm vui được đi xe lửa sau bao ngày cuốc bộ, chút sảng khoái sau bao lần suýt vấp ngã, sự giày vò của cơn đói và chút hạnh phúc được mở cửa tù đón ánh nắng [Đáp xe lửa đi Lai Tân, Hụt chân ngã, Nhân lúc đói bụng),…).

b) Khát vọng mãnh liệt, thường trực về tự do, về nhân phẩm của con người

Nhật kí trong tù có nói nhiều đến nỗi khổ nhưng lớn hơn, sâu hơn cả là nỗi khổ mất tự do, là sự xúc phạm đến nhân phẩm con người. Nên khai thác những bài Ngắm trăng, Tiếc ngày giờ, Lính gác khiêng lợn cùng đi (bài 1 và bài 2).

c) Lòng yêu thương con người, khát vọng mãnh liệt về tự do và nhân phẩm gắn liền với lòng căm ghét những thế lực hắc ám, xã hội bạc ác đối với con người.

Nhật kí trong tù cũng lên án chế độ nhà tù và rộng hơn là cái xã hội bất nhân đối với con người. Có thể lấy dẫn chứng từ những bài: Bốn tháng rồi, Chia nước, Chăn bông giấy của người bạn tù, Hạn chế,…

chúng tôi

Giải Soạn Bài Quê Hương Sbt Ngữ Văn 8 Tập 2

Giải câu 1, 2, 3 trang 12 SBT Ngữ Văn 8 tập 2. Theo em, bức tranh quê hương được tác giả miêu tả trong bài thơ là bức tranh phong cảnh hay bức tranh sinh hoạt ? Từ đó, em có nhận xét gì về tình cảm quê hương của nhà thơ ?

Hai câu thơ sau, tác giả đều dùng biện pháp so sánh :

– Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã – Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Em thấy hai cách so sánh trên có gì khác nhau ? Hiệu quả nghệ thuật riêng của mỗi cách như thế nào ?

Trả lời:

Ở cả hai câu thơ đều sử dụng biện pháp so sánh. Nhưng đó là hai cách so sánh khác nhau, đem lại hiệu quả nghệ thuật cũng khác nhau.

– Câu trên (Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã) là so sánh một vật cụ thể, hữu hình này với một vật cụ thể, hữu hình khác. Con thuyền bơi trên sông hăng hái như con ngựa đẹp, khoẻ đang phi nhanh về phía trước. So sánh như vậy làm nổi bật sự hăng hái, mạnh mẽ của con thuyền ra khơi.

– Câu dưới (Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng) là so sánh một vật cụ thể, hữu hình (cánh buồm giương to) với một cái trừu tượng, vô hình mang ý nghĩa thiêng liêng (mảnh hồn làng). So sánh như vậy không làm cho hình ảnh cánh buồm được cụ thể, rõ nét hơn nhưng khiến cho cánh buồm vô tri trở nên có hồn và mang ý nghĩa lớn lao, trang trọng. Cánh buồm căng gió trở thành một biểu tượng đẹp, đầy ý nghĩa của làng chài.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm ;

Cách miêu tả ở hai câu đó có gì khác nhau ? Hiệu quả nghệ thuật riêng ở mỗi câu là gì ?

Trả lời:

Hai câu thơ sau đều miêu tả người dân chài:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm ;

Cách miêu tả ở mỗi câu mỗi khác, ở câu trên, tác giả tả lần da ngăm rám nắng của. những người lao động nơi biển cả, thường là dưới ánh nắng chói chang. Đây là câu thơ tả thực, làm nổi bật một nét ngoại hình tiêu biểu thường thấy của người dân chài. Câu thứ hai là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Tuy vẫn nói về thân hình người lao động làng chài nhưng không phải được miêu tả bằng thị giác (như câu trên) mà chủ yếu được cảm nhận bằng tâm hồn nhà thơ : vẻ đẹp khoẻ khoắn, lớn lao, đầy lãng mạn của những đứa con của biển khơi ; cả thân hình như thấm đượm “vị xa xăm” của biển khơi bao la, khoáng đạt và đầy bí ẩn. Chú ý : “thân hình nồng thở” và “vị xa xăm” đều là cách nói không có trong ngôn ngừ thông dụng, ở đây, có một hiệu quả nghệ thuật bắt ngờ, thú vị.

Theo em, bức tranh quê hương được tác giả miêu tả trong bài thơ là bức tranh phong cảnh hay bức tranh sinh hoạt ? Từ đó, em có nhận xét gì về tình cảm quê hương của nhà thơ ?

Trả lời:

Tranh phong cảnh là tranh về cảnh đẹp của thiên nhiên, tranh sinh hoạt là tranh về những cảnh sinh hoạt như lao động, vui chơi, mua bán,… của con người. Bài Quê hương mở ra trước mắt người đọc nhiều bức tranh về quê hương làng chài của tác giả. Đó vừa là tranh phong cảnh (cảnh “trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng” ở phần đầu, cảnh “màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi” vẽ khái quát làng quê trong nỗi nhớ của tác giả ở khổ thơ cuối), vừa là những bức tranh sinh hoạt: tiếp sau hai câu mở đầu là đoạn thơ sáu câu miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá ; tám câu tiếp theo là cảnh “dân làng tấp nập đón ghe về”.

Chú ý : Bức tranh phong cảnh và bức tranh sinh hoạt không phải bao giờ cũng có thể phân biệt rõ ràng, nhiều khi một bức tranh có thể vừa là phong cảnh vừa là sinh hoạt (sáu câu tả cảnh sớm mai đoàn thuyền ra khơi vừa là tranh sinh hoạt, vừa là tranh phong cảnh).

– Những bức tranh được vẽ ra trong bài Quê hương chủ yếu là tranh sinh hoạt. Chẳng những chúng chiếm nhiều câu thơ hơn hẳn những cấu tả thiên nhiên mà còn vì trong đó, những câu hay nhất, được sáng tạo độc đáo nhất là miêu tả sinh hoạt lao động và con người lao động của quê hương làng chài. Như vậy, Tế Hanh nhớ quê hương thì trước hết là nhớ những con người và cuộc sống lao động của quê hương. Đó là một tình cảm đối với quê hương thật trong trẻo, thắm thiết và thật khoẻ khoắn, không có nhiều trong phong trào Thơ mới.