Top 8 # Xem Nhiều Nhất Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Lớp 3 Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Asianhubjobs.com

Rèn Luyện Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 3

Toán có lời văn là một bài toán thường gắn với thực tế mà học sinh được tiếp cận ngay lớp 1. Từ lời văn của bài toán, các em phải nhận ra được yếu tố toán học và tìm ra lời giải cùng với phép tính thích hợp. Tác giả bài viết là cô giáo nhiều năm dạy lớp 3.

Học sinh có khó khăn gì khi giải toán có lời văn?

– Học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác.

– Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính. Có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra.

– Dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số.

– Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp… Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì? Chúng ta phải tìm gì?

Tìm hiểu các mức độ của học sinh khi giải toán có lời văn

Học sinh đã được dạy về giải toán có lời văn ở lớp 1 và lớp 2. Giáo viên cần có kiểm tra để đánh giá các mức độ của học sinh khi giải toán có lời văn khi học sinh bắt đầu lên lớp 3. Kinh nghiệm cá nhân đã thực hiện việc này, ta có thể thấy có đến 4 mức độ trong một lớp học.

– Mức không đạt: là những học sinh không xác định được dạng toán, không nắm được quy trình các bước giải và không hiểu được cái gì đã biết và cái gì bài toán yêu cầu phải tìm, không hiểu các thuật ngữ toán học.

– Mức 1: là những học sinh nắm chưa chắc quy trình các bước giải, đặc biệt về việc hiểu nội dung bài toán, nhận dạng toán, phân tích bài toán, … gặp khó khăn.

– Mức 2: là những học sinh cơ bản nắm chắc quy trình giải toán có lời văn, song trong quá trình thao tác có những sai sót (lỗi về kỹ thuật tính) nên kết quả chưa cao.

– Mức 3: là những học sinh nắm chắc quy trình giải toán có lời văn.

Các giải pháp để rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3

1. Chia sẻ với phụ huynh:

– Trao đổi với phụ huynh những ưu điểm, tồn tại mà các em còn hạn chế như: Học sinh chưa biết xác định dạng toán, chưa có kỹ năng tìm hiểu mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm, một số học sinh thực hiện đúng các bước nhưng tính sai kết quả.

– Trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng, cách hướng dẫn các em tự học ở nhà, dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em học tập…

– Giải đáp cho phụ huynh những vướng mắc về cách dạy học cho các em. Sách giáo khoa mới còn nhiều kí hiệu, các lệnh, yêu cầu của sách, phụ huynh chưa rõ yêu cầu bài tập. Riêng trong phần bài tập của sách Toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề toán, luyện nói và trả lời các câu hỏi thường gặp.

2. Chuẩn bị cho việc giải toán:

– Giáo viên phải có thiết kế cụ thể rõ ràng, nó sẽ quyết định lớn đến chất lượng giờ dạy và đồng thời giáo viên cũng là người tổ chức, hướng dẫn thiết kế cho từng học sinh trong lớp.

– Mục tiêu giúp học sinh nắm được các dạng toán cơ bản ở học kỳ I như:

+ Tìm một trong các phần bằng nhau của một số.

+ Gấp một số lên nhiều lần.

+ Giảm một số đi một số lần.

+ Bài toán giải bằng hai phép tính…

– Giúp học sinh biết trình bày bài giải theo thứ tự: Lời giải, phép tính, đáp số.

3. Những điều lưu ý:

– Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng ta không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần quan trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ dạy.

– Các em đã là học sinh lớp 3 song còn rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng việt giúp các em có vốn từ lưu thông; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti.

– Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra.

4. Các bước rèn luyện học sinh:

– Giúp học sinh nắm nội dung bài toán bằng cách định hướng cho học sinh đọc kĩ bài toán : Tìm hiểu các yếu tố lời văn phi toán học trong bài toán, những nội dung lời văn mang yếu tố toán học và xác định dạng bài toán (Ví dụ: Gấp một số lần, kém hơn, bằng…). Từ đó giúp học sinh dễ dàng trong tiếp cận nội dung bài toán có lời văn.

– Giúp lập lời giải và phép tính là nội dung quan trọng nhất trong quy trình giải toán. Chỉ có nhận thức đầy đủ các bước tiếp đó học sinh mới thực hiện tốt việc lập lời giải và phép tính. Giáo viên cần định hướng cho học sinh mỗi lời giải và phép tính là một bước đi tuần tự hợp lý của việc thực hiện kế hoạch giải bài toán.

– Để củng cố tốt cho học sinh, ngoài các thí dụ trong sách giáo khoa, giáo viên cần có những bài tương tự (không khó hơn) để học sinh được thực hành giải nhiều hơn và từ đó nắm chắc hơn, tự tin hơn.

5. Thí dụ minh hoạ

Thí dụ 1. (Bài 4 trang 56) Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125l, người ta đã lấy ra 185l dầu từ các thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu?

Trước hết cần thiết kế mạch lạc quá trình giải toán:

– Kế hoạch giải : Tìm số dầu của cả 3 thùng→ Tìm số dầu còn lại.

– Căn cứ kế hoạch giải để thực hiện:

+ Đặt lời giải thứ nhất : Số dầu của 3 thùng là :

Sau đó viết phép tính : 125 x 3 = 375 (l)

+ Đặt lời giải thứ hai: Số dầu còn lại là :

Sau đó viết phép tính : 375 – 185 = 190 (l)

Như vậy, học sinh sẽ thiết lập được mối quan hệ giữa lời giải và phép tính. Đây là yêu cầu cơ bản khi thực hiện trình bày bài giải toán có lời văn.

Thực hiện kế hoạch trên lớp:

– Cần nêu câu hỏi gợi mở để học sinh nhận biết trong bài toán có lời văn đâu là lời văn có chứa yếu tố toán học, đâu là lời văn không chứa yếu tố toán học. Nhằm tạo điều kiện cho học sinh nắm chắc nội dung bài toán. Sau khi hiểu nội dung bài toán, học sinh biết gạt bỏ những yếu tố phi toán học để nhận ra cốt lõi (nhân) của bài toán để tóm tắt bài toán dưới những hình thức thích hợp:

– Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán:

+ Bài toán cho biết điều thứ nhất là gì? 3 thùng : Mỗi thùng 125 l .

+ Bài toán còn cho biết điều gì? Đã lấy:185 l

+ Bài toán yêu cầu điều gì? Số dầu còn lại. Còn: …l ?

– Khi hướng dẫn học sinh giải bài toán trên: Giáo viên nêu câu hỏi

+ Muốn biết còn lại bao nhiêu lít dầu trước hết ta cần biết điều gì? Số dầu có ban đầu (tổng số dầu của 3 thùng).

+ Tìm số dầu của 3 thùng bằng cách nào? 125 x 3 = 375( l )

+ Có tổng số dầu rồi muốn tìm số dầu còn lại ta làm thế nào? 375 – 185 = 190( l )

Như vậy, bằng các hình thức trên, giáo viên giúp học sinh tư duy, động não, tư duy độc lập, dần dần tạo được phương pháp học tập, ghi nhớ của học sinh. Đặc biệt tạo hứng thú khám phá sáng tạo của học sinh trong học tập giải toán có lời văn.

Lưu ý phân tích rõ cho học sinh

– Xác định căn cứ để lập lời giải:

+ Căn cứ vào câu hỏi của bài toán.

+ Căn cứ vào kế hoạch giải bài toán đã lập.

+ Căn cứ vào yêu cầu tìm những dữ kiện chưa biết hoặc kết quả cần tìm.

– Những dự kiện chưa biết cần tìm để trả lời câu hỏi cuối cùng của bài toán hay nói cách khác phục vụ tìm đáp số cuối cùng.

– Nội dung lời giải mô tả định tính mục đích thực hiện phép tính.

Ở học sinh lớp 3 là các em đã có óc khái quát cơ bản phát triển. Vì vậy, việc tìm phép tính đặt lời giải là hợp lôgic tư duy khoa học.

Thí dụ 2. (Bài 3 trang 58) Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127kg cà chua, ở thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp ba lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lô-gam cà chua?

Các bước thực hiện trên lớp

– Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài. Tóm tắt bài toán bằng cách vẽ sơ đồ hoặc tóm tắt bằng lời để tìm ra cách giải. Học sinh thực hiện được như sau:

Thửa ruộng thứ nhất: 127kg

Thửa ruộng thứ hai : gấp ba

Cả hai : …….kg?

– Cách 1: Bài giải

Số ki-lô-gam cà chua thu được của thửa ruộng thứ 2 là:

127 x 3 = 381 (kg)

Số ki-lô-gam cà chua thu được của cả hai thửa ruộng là:

127 + 381 = 508 (kg)

Đáp số: 508 kg.

Giáo viên khắc sâu dạng toán cho học sinh: Bài toán này thuộc dạng toán gì? (gấp một số lên nhiều lần và tìm tổng của hai số).

– Cách 2: Nhìn vào tóm tắt có em giải như sau:

Số ki-lô-gam cà chua thu được của cả hai thửa ruộng là:

127 x 3 + 127 = 508 (kg)

Đáp số: 508kg.

– Qua hai cách giải của học sinh giáo viên giải thích cho học sinh biết: thực ra cách 2 cũng chính là cách 1 nhưng gộp hai phép tính lại thành một phép tính.

– Giáo viên có thể gợi ý học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng và tìm cách giải khác. Giáo viên cho học sinh nhận xét:

+ Số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất biểu thị mấy phần? (1 phần)

+ Số cà chua ở thửa ruộng thứ hai biểu thị mấy phần? (3 phần)

+ Số cà chua cả hai thửa ruộng biểu thị mấy phần? (4 phần)

– Giáo viên hướng dẫn: Nhìn vào sơ đồ các em hãy tìm cách giải khác cho bài toán. Từ đó học sinh có lời giải khác:

Bài giải

Tổng số phần bằng nhau là:

1 + 3 = 4 (phần)

Số ki-lô-gam cà chua thu được của cả hai thửa ruộng là:

127 x 4 = 508 (kg)

Đáp số: 508kg.

– Giáo viên cần nhắc nhở học sinh: Với từng bước giải học sinh phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép tính. Từ đó giúp học sinh nắm chắc đề toán, hiểu kỹ đề, tìm nhiều cách giải khác nhau giúp học sinh phát triển tư duy toàn diện.

Kết luận

Trong quá trình giảng dạy, mỗi giáo viên chúng ta cần suy nghĩ để xác định cho mình những công việc cần làm để chất lượng truyền thụ kiến thức, rèn luyện kĩ năng cho học sinh đạt hiệu quả hơn. Những chia sẻ trên chỉ là những tìm tòi suy nghĩ cũng như những gì mà tác giả đã thực hiện và có kết quả tốt. Trước khi dừng bài viết, tác giả muốn chia sẻ những điều mà mình thấy có ý nghĩa:

– Dạy giải toán có lời văn cho học sinh là phương pháp dạy học mang tính tư duy khoa học và hệ thống kiến thức xuyên suốt ở các lớp.

– Dạy giải toán có lời văn cho học sinh cần tuân thủ quy trình và hệ thống nhận thức khoa học. Chú trọng việc phân tích bài toán giúp học sinh tìm ra mối quan hệ giữa các số liệu trong bài toán, từ đó nhận ra kiến thức cần sử dụng để giải bài toán.

– Dạy giải toán có lời văn hướng tới đích cuối cùng là giúp học sinh đặt lời giải đúng, phép tính đúng đi đến kết quả đúng.

Cảm ơn các bạn đã quan tâm. Hy vọng nhận được các trao đổi của đồng nghiệp.

Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5

Chương trình Toán của Tiểu học có vị trí rất quan trọng. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản.

Môn toán ở Tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.

Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn Toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ”chìa khoá” mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước.

PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Chương trình Toán của Tiểu học có vị trí rất quan trọng. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn toán ở Tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn Toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước. Trong dạy - học Toán ở Tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Dạy học giải toán có lời văn ở bậc Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau: - Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kỹ năng tính toán bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. - Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. - Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động, như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể, ... Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán đối với các em không còn mới lạ, khả năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và đang ở giai đoạn phát triển. Học sinh đã có vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những hiểu biết nhất định. Tuy nhiên trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một số sai sót mà học sinh thường mắc là không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán, ... nên đã lựa chọn sai phép tính. Với những lý do đó, học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn là rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán lôgic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó tôi đã lựa và thực hiện sáng kiến "Rèn kĩ năng gi¶i toán có lời văn cho học sinh lớp 5 " để nghiên cứu, với mục đích là: - Tìm hiểu những kỹ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5. - Hướng dẫn học sinh giải cụ thể một số bài toán, một số dạng toán có lời văn ở lớp 5, từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy - học giải toán có lời văn. PHẦN II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ së lý luận Giải toán là một phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bậc Tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học, số tự nhiên, phân số, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, các yếu tố đại số và hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các vấn đề sau: +) Các khái niệm và các quy tắc trong sách giáo khoa nói chung đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc khắc phục. +) Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. +) Việc giải toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật biện chứng: việc giải toán với những nội dung thích hợp, có thể giới thiệu cho các em những thành tựu trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta và các nước anh em, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới, góp phần giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch v.v... Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng v v... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v v.. +) Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những phẩm chất tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... .Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v... 2. Thực trạng của vấn đề Qua thực tế giảng dạy tôi thấy: Hướng dẫn học sinh giải toán đã khó nhưng hướng dẫn học sinh giải một bài toán có lời văn lại càng khó hơn. Mặt khác do kĩ năng đọc của các em còn yếu nên kĩ năng đọc - hiểu lại càng khó khăn hơn. Chính vì vậy môn Toán ở Tiểu học nói chung, phần toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng sẽ đóng góp một phần không nhỏ vào việc giáo dục toàn diện và giúp học sinh học tốt ở các lớp trên. 3. Các biện pháp mới đã thực hiện để giải quyết vấn đề 3.1. NhËn thøc ®óng ®¾n vÒ viÖc ®æi míi ph­¬ng ph¸p gi¶ng d¹y m"n To¸n Đổi mới phương pháp dạy toán là một điều rất cần thiết, xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục, trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thể hiện qua Nghị quyết XI của Đảng về đổi mới căn bản Giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Qua đó tôi thấy được đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới từ cách nghĩ, cách soạn và giảng bài. Nhưng đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ những phương pháp dạy học truyền thống mà trên cơ sở đó chúng ta sử dụng những phương pháp dạy học tích cực, linh hoạt phù hợp với đặc trưng tiết dạy, thừa kế, phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống. 3.2. Xây dựng các bước cơ bản khi dạy 1 bài toán có lời văn ở lớp 5. a/ Tìm hiểu đề Đây là bước rất quan trọng nó giúp học sinh nắm được các dữ liệu của bài toán đã cho yếu tố bài toán yêu cầu giải đáp. Do đó, khi đọc đề toán tôi hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để nắm được các dữ liệu đã cho và yếu tố bài toán yêu cầu tìm. Dựa vào đề bài tóm tắt bài toán bằng lời ngắn gọn, hoặc sơ đồ đoạn thẳng. Tóm tắt đủ ý, chính xác, ngắn gọn và cô đọng. b/ Lập kế hoạch giải Dựa vào phần tóm tắt, tôi lựa chọn câu hỏi thích hợp để giúp học sinh xác định đầy đủ. Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? (Yêu cầu cần tìm). Bằng phương pháp gợi mở, tôi dẫn dắt học sinh bằng cách đưa ra những tình huống gợi mở để học sinh tìm ra cách giải bài toán: Làm thế nào? tại sao?, c/ Giải bài toán Đây là bước rất quan trọng bởi khi học sinh đã tìm ra được phép tính đúng nhưng khi trình bày bài giải lại chưa hoàn chỉnh ( câu trả lời chưa đúng). Vì vậy khi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải tôi đã hướng ... m hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó Đối với dạy toán này tôi cũng hướng dẫn các em làm bài toán theo bước: - Xác định hiệu của 2 số . - Xác định tỉ số của hai số - Tìm hiệu số phần bằng nhau - Tìm giá trị 1 phần - Tìm mỗi số theo số phần biểu thị. * Ví dụ: Hiệu của hai số là 55. Số thứ nhất bằng số thứ hai. Tìm hai số đó . ( Bài 1/b - trang 18- SGK toán 5) Bước 1: Tìm hiểu đề Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài và tìm hiểu những dữ liệu đã biết của bài, yêu cầu của bài toán. +) Bài toán cho biết gì? ( Hiệu của hai số là 55. Số thứ nhất bằng số thứ hai) +) Bài toán yêu cầu tìm gì? (Tìm 2 số đó) - Tóm tắt bài toán Hãy nêu cách vẽ sơ đồ bài toán? ( Dựa vào tỉ số của hai số, ta có thể vẽ sơ đồ bài toán. Tỉ số của số thứ nhất và số thứ hai là , nếu số thứ nhất là 9 phần thì số thứ hai sẽ là 4 phần như thế ) Bước 2: Lập kế hoạch giải - Làm thế nào để tìm được hai số đó? ( Tính hiệu số phần bằng nhau, sau đó tìm số thứ nhất số thứ hai) - Làm thế nào để tìm được số thứ hai ( em hãy đi tìm giá trị của 1 phần rồi nhân với số phần biểu thị ) - Em tìm giá trị 1 phần bằng cách nào? ( lấy hiệu chia cho hiệu số phần) - Tìm được số thứ hai, muốn tìm số thứ nhất em phải làm thế nào? ( Lấy số bé cộng với hiệu ) - Bài nào có thể có mấy cách giải ( 2 cách giải ) Bước 3: Giải bài toán 55 ? ? Cách 1: Ta có sơ đồ: Số thứ hai: Số thứ nhất: Theo sơ đồ, số thứ hai là : 55 : ( 9 - 4) x 4 = 44 Số thứ nhất là : 44 + 55 = 99 Đáp số: Số thứ hai: 44 Số thứ nhất: 99 Cách 2: 55 ? ? Ta có sơ đồ: Số thứ nhất: Số thứ hai: Theo sơ đồ, số thứ nhất là : 55 : ( 9 - 4) x 9 = 99 Số thứ hai là : 99 - 55 = 44 Đáp số: Số thứ nhất: 99 Số thứ hai: 44 Bước 4: Thử lại Hướng dẫn HS thử lại bài toán. Hiệu giữa 2 số là : 99 - 44 = 55 Tỉ số của số thứ nhất bằng số thứ hai: d. Dạy bài toán tìm tỉ số phần trăm * Dạy bài toán tìm tỉ số phần trăm của hai số. Đối với dạng toán này tôi hướng dẫn học sinh giải bài toán theo các bước: - Tìm thương của hai số đó. - Nhân thương đó với 100, viết thêm kí hiệu % vào bên phải tích tìm được. * Ví dụ: Một lớp học có 25 học sinh, trong đó có 13 học sinh nữ. Hỏi số học sinh nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh của lớp đó? ( Bài 3 trang 75 - SGK toán 5 ) Bước 1: Tìm hiểu đề - Cho học sinh tự đọc đề bài nhiều lượt. - Hướng dẫn học sinh nắm các dữ liệu bài toán. +) Bài toán cho biết gì? (Lớp học có 25 học sinh, trong đó có 13 học sinh nữ) +) Bài toán yêu cầu tìm gì? (Số học sinh nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh của lớp) - Tóm tắt bài toán Lớp học: 25 học sinh Trong đó: 13 nữ Nữ: ...% số HS lớp? Bước 2: Lập kế hoạch giải: Muốn tính số HS nữ chiếm bao nhiêu số phần trăm số HS của lớp ta làm thế nào ? (Tìm thương của 13 và 25 sau đó nhân thương đó với 100, viết thêm kí hiệu phần trăm vào bên phải tích vừa tìm được ). Bước 3 : Giải bài toán Tỉ số phần trăm của số HS nữ và số HS cả lớp là: 13 : 25 = 0, 52 0,52 = 52% Đáp số: 52 % Bước 3: Thử lại Muốn thử lại bài toán ta làm thế nào? (Thực hiện phép tính ngược lại để kiểm tra kết quả) 52 : 100 25 = 13 * Dạy bài toán tìm một số phần trăm của một số. Đối với dạng toán này tôi hướng dẫn học sinh giải bài toán theo các bước: - Lấy số đó chia cho 100. - Nhân thương đó với số phần trăm. Hoặc: - Lấy số đó nhân với số phần trăm - Nhân tích đó với 100. * Ví dụ : Một lớp học có 32 học sinh, trong đó số học sinh 10 tuổi chiếm 75%, còn lại là học sinh 11 tuổi. Tính số học sinh 11 tuổi của lớp học đó. (Bài 1 - trang 77 - SGK toán 5) Bước 1: Tìm hiểu đề - Tôi hướng dẫn học sinh đọc đề toán nhiều lần, nhấn mạnh những dữ kiện cho trước và yếu tố cần tìm. +) Bài toán cho biết gì? ( lớp học có 32 học sinh, số học sinh 10 tuổi chiếm 75% còn lại là HS 11 tuổi). +) Bài toán yêu cầu tìm gì? (Tính số học sinh 11 tuổi của lớp học đó) - Tóm tắt bài toán: Lớp học: 32 học sinh HS 10 tuổi: 75% HS 11 tuổi:... học sinh Bước 2: Lập kế hoạch giải: - Làm thế nào để tính được số học sinh 11 tuổi? ( Ta lấy tổng số học sinh cả lớp trừ đi số học sinh 10 tuổi) - Vậy trước hết ta phải tìm gì? ( Tìm số HS 10 tuổi) Bước 3 : Giải bài toán Bài giải Cách 1: Số học sinh 10 tuổi là: 32 75 : 100 = 24 (học sinh ) Số học sinh 11 tuổi là: 32 - 24 = 8 ( học sinh) Đáp số: 8 học sinh Cách 2: Số học sinh 10 tuổi là: 32 : 100 75 = 24 (học sinh ) Số học sinh 11 tuổi là: 32 - 24 = 8 (học sinh) Đáp số: 8 học sinh Bước 4: Thử lại Hướng dẫn học sinh thử lại: 8 + 24 = 32 * Dạy bài toán tìm một số khi biết giá trị một số phần trăm của nó Đối với bài toán này tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán theo các bước giải: - Lấy giá trị phần trăm chia cho số phần trăm. - Nhân thương đó với 100. Hoặc: - Lấy giá trị phần trăm nhân với 100. - Lấy tích chia cho số phần trăm. * Ví dụ: Số học sinh khá của trường Vạn Thịnh là 552 em, chiếm 92% số học sinh toàn trường. Hỏi trường Vạn Thịnh có bao nhiêu học sinh? (BT1 - trang 78 - SGK toán 5 ) Bước 1: Tìm hiểu đề - Tôi hướng dẫn các em đọc đề toán nhiều lần để tìm hiểu các dữ liệu tường minh của bài toán. +) Bài toán cho biết gì? ( Số HS khá 552 em chiếm 92% số HS cả trường) +) Bài toán yêu cầu tìm gì? ( Trường đó có bao nhiêu học sinh) - Tóm tắt bài toán HS khá trường 552 em : chiếm 92% số HS toàn trường Trường: ... học sinh? Bước 2 : Lập kế hoạch giải - Làm thế nào để tính được số HS của trường Vạn Thịnh? ( Tìm 1% số HS của trường là bao nhiêu em) - Số HS khá chiếm 92% số HS toàn trường. Vậy số HS toàn trường là bao nhiêu phần trăm? ( 100%) - Tìm số HS toàn trường ta làm thế nào? ( lấy số HS của 1% nhân với 100) Bước 3: Giải bài toán Bài giải Trường Vạn Thịnh có số học sinh là: 552 100 : 92 = 600 ( học sinh) Đáp số: 600 học sinh Bước 4: Thử lại - Hướng dẫn học sinh thử lại bài toán ( lấy số học sinh toàn trường chia cho 100 rồi nhân với 92) 600 : 100 92 = 552 4/ Hiệu quả của sáng kiến Qua quá trình hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn theo hướng đi trên. Tôi nhận thấy năm học 1010 - 2011 học sinh ở lớp 5A đã nắm chắc được trình tự giải bài toán về Tìm số trung bình cộng; Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó; Bài toán tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó; Bài toán về tỉ số phần trăm. Các em đã biết tóm tắt bài toán, biết tìm lời giải và phép tính đúng theo yêu cầu của mỗi bài tập theo các dạng toán đã học. Kết quả học tập môn Toán được nâng lên đáng kể. Cụ thể như sau: Thời gian kiểm tra Tổng số học sinh Kết quả Điểm 1 - 2 Điểm 3 - 4 Điểm 5 - 6 Điểm 7 - 8 Điểm 9 - 10 SL % SL % SL % SL % SL % Giữa kỳ I 25 3 12 3 12 9 36 8 32 2 8 Cuối kỳ I 25 2 8 3 6 10 40 7 28 3 12 Giữa kỳ I 25 1 4 1 4 10 40 8 32 5 20 Cuối kì II 25 0 0 0 0 9 36 8 32 8 32 Như vậy, với việc áp dụng kinh nghiệm "Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh ở lớp 5" Bản thân tôi đã lựa chọn phương pháp và sử dụng các hình thức dạy học phù hợp với đặc điểm, đối tượng học sinh gắn với từng nội dung của từng bài cụ thể. Nhờ đó mà kết quả học tập môn toán của lớp tôi được nâng lên rõ rệt so với đầu năm học. PHẦN III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Trong hoạt động dạy - học, người giáo viên ngoài việc tìm tòi phương pháp học đúng để lĩnh hội tri thức mới hình thành nên kỹ năng, kỹ xảo từ đó hoàn thành nhiệm vụ dạy học. Muốn học tốt môn Toán nhưng lại không có phương pháp học đúng thì kết quả học toán sẽ không cao. Do vậy, muốn có phương pháp học tốt phù hợp với môn Toán là rất cần thiết. Đặc biệt là ở lứa tuỏi học sinh Tiểu học. Có kết quả môn Toán cao là nhờ biết kết hợp các phương pháp học đúng, giúp học sinh hiểu bài nhanh và nhớ lâu. Do vậy, việc dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày. Những kết quả mà tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn Toán ở bậc Tiểu học, song lại là cái mới đối với bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở bậc Tiểu học. Tôi tự cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm các kiến thức và kĩ năng sư phạm, sự ham muốn, say sưa với việc nghiên cứu. Tuy nhiên sáng kiến này của tôi là giai đoạn đầu nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, của các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề giải toán có lời văn cho học sinh ở bậc Tiểu học nói chung và giải Toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng. 2. Kiến nghị 2. 1. Đối với nhà trường Nhà trường cần có đủ sách tham khảo cho giáo viên và học sinh về môn Toán. 2.2. Đối với tổ chuyên môn 2. 3. Đối với giáo viên Trước khi lên lớp phải nghiên cứu kỹ bài giảng, tìm ra phương pháp dạy phù hợp với từng bài học. Tạo không khí học tập sôi nổi, lôi cuốn học sinh tập trung chú ý nghe giảng, kích thích học sinh tư duy, suy nghĩ, sáng tạo làm cho giờ học diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả. 2.4. Đối với phụ huynh Mua đủ sách giáo khoa cho học sinh và các loại sách tham khảo về môn Toán. 2.5. Đối với học sinh + Chăm chỉ học tập. + Cần rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Ph­îng Mao, ngµy 20 th¸ng 10 n¨m 2011 Ng­êi thùc hiÖn §inh ThÞ Hång H¶i Phần I: Đặc vấn đề Phần II: Giải quyết vấn đề 1. Cơ sở lý luận 2. Thực trạng của vấn đề 3. Các biện pháp mới đã thực hiện để giải quyết vấn đề 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm . Phần III: Kết luận và kiến nghị 1. Kết luận 2. Kiến nghị 3. Đề xuất hướng phát triển tiếp sáng kiến kinh nghiệm 4. Kết lụân và kiến nghị Phụ lục: Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện đại hội Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam 2. Luật giáo dục năm 2005. 3. Chương trình Tiểu học - 2000 (Đỗ Đình Than - Nguyễn Việt Hùng) 4. Nhiệm vụ năm học. 5. Chuẩn kiến thức kĩ năng 6. Sách giáo khoa Toán 5 7. Sách hướng dẫn giảng dạy Toán 5, NXB Hà Nội năm 2010 8. Thiết kế bài giảng Toán 5 9. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III.

Skkn Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 4

TT Nội dung Trang 1 I. MỞ ĐẦU 1 2 1. Lí do chọn đề tài: 1 3 2. Mục đích nghiên cứu. 2 4 3. Đối tượng nghiên cứu. 2 5 4. Phương pháp nghiên cứu. 2 6 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 7 1. Cơ sở lí luận 2 8 2. Thực trạng của vấn đề 3 9 3. Các giải pháp 5 10 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 13 11 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 14 12 1. Kết luận. 14 13 2. Kiến nghị. 14 I. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Như chúng ta đã biết, Toán học là một trong những môn học đòi hỏi sự tư duy sáng tạo cả người dạy và người học. Chính vì thế, để mỗi học sinh chiếm lĩnh được tri thức nói chung và Toán học nói riêng thì mỗi người thầy cô phải thật sự tâm huyết khơi nguồn tri thức đến mỗi học sinh. Thật vậy, tri thức trong xã hội là chìa khóa vạn năng để mở tất cả các cánh cửa của loài người. Muốn có tri thức thì mỗi người học sinh phải học và phải học thật tốt. Việc học phải trải qua quá trình nghiền ngẫm, suy luận tìm tòi mới có được. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà trường hiện nay là hình thành, phát triển trí tuệ cho học sinh. Trong các môn học nói chung và môn Toán nói riêng đều có nhiệm vụ trao dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng góp phần tích cực vào việc đào tạo con người. Trong các môn khoa học và kĩ thuật , Toán học giữ một vai trò nổi bật. Nó còn là môn thể thao trí tuệ giúp ta rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, học tập và giải quyết vấn đề. Toán học còn giúp ta phát huy một số đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, yêu thích sự chính xác, khẳng định chân lí. Môn Toán là một trong những môn học bắt buộc được dạy trong chương trình Tiểu học. Cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, trong lao động cũng như trong quá trình học sinh học lên các cấp học sau này. Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học được cấu trúc theo vòng tròn đồng tâm và chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn một là các lớp 1, 2, 3 và giai đoạn hai là các lớp 4, 5. Vì trong chương trình Toán lớp 4 nói chung và Toán có lời văn lớp 4 nói riêng là mở đầu là mở đầu giai đoạn hai ở tiểu học. Giai đoạn này, việc giải toán có sự yêu cầu và đòi hỏi cao hơn. Đó là, học sinh phải biết phân tích bài toán hợp thành bài toán đơn, đưa những bài toán phức tạp về các bài toán đơn giản hơn mà các em đã biết cách giải. Học sinh biết vận dụng phép phân tích, tổng hợp trong quá trình tìm, xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch giải. Vì vậy, đây là cơ sở ban đầu rất quan trọng của một giai đoạn mới trong quá trình học toán ở Tiểu học nói chung và giải toán có lời văn nói riêng. Xuất phát từ thực tế dạy học, năm học 2017- 2018 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 4C. Ngay từ những ngày đầu năm học, khi dạy đến các bài toán có lời văn, tôi đã nhận thấy trong lớp mình còn nhiều học sinh gặp khó khăn khi giải toán. Qua khảo sát, điều tra cụ thể, có trên 40% số học sinh trong lớp kĩ năng giải toán chưa đạt yêu cầu. Và đây cũng là điều tôi suy nghĩ rất nhiều, nếu các em giải toán còn yếu thì làm sao nắm được cách giải các bài toán dựa vào sơ đồ đoạn thẳng, dùng chữ thay số, rút về đơn vị và một số dạng toán điển hình của lớp 4 như: tìm hai số khi biết tổng hiệu, tổng tỉ, hiệu tỉ. Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn đưa ra và nghiên cứu đề tài “Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4”. Với hi vọng sau khi nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao trình độ của bản thân, góp phần nâng cao chất lượng dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn ở lớp 4. Qua sáng kiến này tôi cũng muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của bạn bè đồng nghiệp, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học giải toán có lời văn cho học sinh nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Như chúng ta đã biết, việc giải toán có lời văn của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng là việc rất khó khăn đối với các em. Chính vì thế để giúp các em nắm được cách giải của một bài toán là một việc làm cần thiết. Mặt khác, để giải được một bài toán đúng các em cần phải nắm chắc và tổng hợp nhiều kiến thức toán học. Vì vậy, mục đích của đề tài này tôi đưa ra là: + Học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, nhận dạng bài toán và giải tốt các bài toán có lời văn. + Biết cách giải bài toán có lời văn lớp 4 một cách linh hoạt. + Biết cách trình bày bài toán một cách khoa học, chính xác, đầy đủ. + Đối với bản thân giáo viên: tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đức rút kinh nghiệm trong giảng dạy, nhất là mạch kiến thức toán có lời văn lớp 4. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Với mục đích nghiên cứu của đề tài này, khi nghiên cứu tôi hướng tới các bài toán có lời văn trong sách giáo khoa lớp 4. Được sự nhất trí và tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là lớp 4C trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám do tôi phụ trách. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: + Nghiên cứu trên cơ sở lí luận. + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. + Phương pháp thống kê dữ liệu. + Phương pháp trò chuyện, quan sát, điều tra, phỏng vấn. + Phương pháp thực nghiệm sư phạm, trao đổi với đồng nghiệp. + Phương pháp nghiên cứu qua sản phẩm của học sinh. II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn TV, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc trung học. Mặt khác, giải toán có lời văn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho HS năng lực tư duy và đức tính tốt của con người lao động mới, hoạt động trí tuệ trong việc giải toán góp phần giáo dục các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo vv… Song đối với học sinh lớp 4, các em còn hiếu động, ham chơi, chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học nên thường lơ là, xem thường việc học toán. Chính vì thế, việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn là việc làm cần thiết, từ đó học sinh có kiến thức toán học một cách tốt hơn. * Nội dung chương trình Toán lớp 4 gồm : – Ôn tập về số tự nhiên. Bảng đơn vị đo khối lượng. – Bốn phép tính với só tự nhiên. Hình học. – Dấu hiệu chí hết cho 2,5,9,3. Giới thiệu hình bình hành. – Phân số – các phép tính với phân số. Giới thiệu hình thoi. – Ôn tập các nội dung trên. 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ. 2.1. Thực trạng chung Như chúng ta đã biết, chương trình toán lớp 4 là mở đầu cho giai đoạn hai của toán Tiểu học. Chính vì thế, lượng toán giải chiếm số lượng tương đối lớn, trong đó đa số là dạng toán điển hình. Mức độ khó của các bài toán giải cũng đã được nâng lên, chủ yếu là các bài toán hợp. Chính vì thế, để giải được bài toán đòi hỏi học sinh phải sử dụng nhiều kiến thức đã học để giải quyết vấn đề. Đứng trước tình hình đó, nhiều học sinh đã có biểu hiện không hứng thú với việc giải toán. Mặt khác, do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em thường vội vàng, hấp tấp hay đơn giản hóa vấn đề nên đôi khi chưa hiểu kĩ đề, làm bài chưa cẩn thận đã nộp bài. Từ đó dẫn đến bài làm còn nhiều khi bị sai, thiếu sót. Đối với giáo viên còn phải dạy nhiều môn học, số lượng học sinh trong một lớp đông, khả năng tiếp thu của các em không đồng đều, có sự chênh lệch nhiều. Chính vì thế, việc truyền tải kiến thức toán học nói chung và giải toán có lời văn nói riêng đến từng học sinh còn có phần hạn chế. Đối với các em tiếp thu chậm thì việc nắm kiến thức mới và giải các bài toán có lời văn là một việc vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó, trong lớp còn có học sinh tâm lí không ổn định, một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ chưa quan tâm đến việc học hành của con cái. Chính vì thế mà đôi khi, chưa có sự thống nhất cao giữa giáo viên và cha mẹ học sinh. Từ đó, hiệu quả học tập của các em chưa cao, nhất là việc giải toán có lời văn lại là sự cản trở lớn trong việc hoc tập của các em. 2.2.Thực trạng của trường, lớp Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám là ngôi trường nằm ở trung tâm thành phố Thanh Hóa. Bản thân tôi mới về nhận công tác được gần ba năm nhưng tôi nhận thấy, đây là ngôi trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương. Trường có một tập thể cán bộ giáo viên với nhiều bề dày kinh nghiệm, có trình độ chuẩn và trên chuẩn luôn tâm huyết với nghề. Cùng với đó là ban giám hiệu luôn quan tâm tạo điều kiện để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì thế mà ngôi trường đã đón nhận gần một nghìn học sinh. Đây là ngôi trường mà các bậc phụ huynh luôn đặt niềm tin cao, để gửi gắm cho em mình về đây học tập. Bên cạnh những mặt thuận lợi trên thì bản thân tôi còn nhận thấy một số mặt khó khăn hạn chế mà trường và lớp tôi gặp phải đó là: khuôn viên trong trường đang hẹp so với số lượng học sinh, diện tích phòng học chưa đảm bảo, số lượng học sinh trong một lớp đông. Chính vì thế mà phần nào đã ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi và sinh hoạt của các em. Còn về phần lớp4C do tôi chủ nhiệm tổng số học sinh là 42 em, trong đó có 21 em nam và 21 em nữ. Nhìn chung các em ngoan, chịu khó học bài và làm bài, phụ huynh cũng trang bị đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Song từ khi nhận lớp, tôi đã nhận thấy một số em trong lớp còn hiếu động, chưa tập trung tiếp thu bài, khả năng tiếp thu còn chậm, có cả học sinh tâm lí không bình thường.Phụ huynh đa số là buôn bán tự do, một số gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên chưa sát sao đến việc học tập của con em mình. Chính vì thế, một số em đã có tính ỉ lại, chưa có sự chịu khó, vươn lên để học tập. Đặc biệt việc nắm kiến thức giải toán có lời văn đối với các em lại càng hạn chế hơn. Bên cạnh đó khả năng tiếp thu các kiến thức của các em không đồng đều. Đối với các em tiếp thu tốt thì việc vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học vào từng bài cụ thể là rất tốt. Song đối với các em tiếp thu chậm, khả năng vận dụng kiến thức tổng hợp vào từng bài cụ thể là hết sức khó khăn. Do đó, đối với giáo viên việc vừa dạy kiến thức mới, vừa ôn tập củng cố và dẫn dắt học sinh giải một bài toán là việc làm thường xuyên và cần thiết. Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng của lớp để nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh trong lớp cụ thể đề khảo sát là: Câu 1: Lớp 4D có 20 học sinh nam và 12 học sinh nữ. Hỏi số học sinh nữ ít hơn số học sinh nam là bao nhiêu em? Câu 2: Một xe ô tô chuyến trước chở được 3 tấn muối, chuyến sau chở nhiều hơn chuyến trước 3 tạ. Hỏi cả hai chuyến chở được bao nhiêu tạ muối? Câu 3: Lớp 4A trồng được 36 cây, lớp 4B trồng nhiều hơn lớp 4A 6 cây. Hỏi trung bình mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? Kết quả khảo sát thu được là: Tổng số Học sinh Giải đúng và nhanh SL TL Giải đúng nhưng còn chậm SL TL Giải chưa đúng SL TL 42 14 33,3 16 38,2 12 28,5 3. CÁC GIẢI PHÁP 3.1. Rèn cho học sinh các kiến thức và kĩ năng toán học, biết vận dụng linh hoạt các kiến thức và kĩ năng đó vào việc giải toán có lời văn. Để giải bài toán này thì học sinh cần vận dụng hai mạch kiến thức để giải. Đó là tính tổng số cân nặng của 4 em và lấy tổng chia cho 4 để ra trung bình số cân nặng của mỗi em. Song đối với những em tiếp thu chậm, chỉ tính số cân nặng của 4 em là xong. Ví dụ: Trung bình mỗi em cân nặng là: ( 36 + 38 + 40 + 34) = 148 ( kg) – Muốn tìm trung bình mỗi em nặng bao nhiêu trước hết ta phải làm gì? ( Tính tổng số tuổi của 4 em) – Để tìm trung bình cộng số tuổi của 4 em ta làm như thế nào? ( Ta lấy tổng số tuổi chia cho 4) Qua đó, học sinh sẽ hiểu rõ hơn, để giải quyết bài toán này cần phải vận dụng hai mạch kiến thức đã học. Với bài toán khác: Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 35m, chiều dài bằng 3 Chiều rộng. Tính diện tích hình chữ nhật đó? 2 Để học sinh giải tốt được bài toán này thì giáo viên cần giúp học sinh nắm tổng hợp các kiến thức. Khi phân tích đề giáo viên có thể biểu diễn bằng sơ đồ đoạn thẳng để học sinh dễ dàng nhận ra. Chiều dài: 35m Chiều rộng: Nhìn vào sơ đồ, học sinh có thể thấy nửa chu vi hình chữ nhật chính là tổng của một chiều dài và một chiều rộng và là tổng của hai số. Đến đây học sinh dễ dàng nhận ra đây là dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó”. Như vậy, để tìm được chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật học sinh phải vận dụng cách giải dạng toán trên. Khi tìm được chiều dài, chiều rộng thì một kiến thức cần củng cố cho học sinh là cách tính diện tích hình chữ nhật. 3.2. Rèn luyện qua các bước giải để học sinh có kĩ năng giải bài toán Như chúng ta đã biết, để giải được bài toán, ta phải tiến hành qua một số bước cụ thể như sau: Bước 1: Rèn kĩ năng đọc và phân tích bài toán – Kĩ năng đọc là một trong các kĩ năng được quan tâm chú trọng ngay từ khi các em vào học lớp 1. Kĩ năng này vẫn được rèn luyện cho các em ở các lớp trên thông qua môn tập đọc và một số môn khác. Tuy là học sinh lớp 4 nhưng kĩ năng đọc của một số em chưa tốt. – Với những em đọc chưa tốt thì tôi luôn dành nhiều thời gian hơn cho các em được rèn kĩ năng đọc, không những trong giờ tập đọc mà còn trong cả tiết học khác như: Lịch Sử, Địa Lý, Khoa Học…Không những các em ngắt nghỉ chưa đúng mà việc đọc bỏ từ, thiếu từ thì sẽ dẫn đến các em hiểu sai đề. Ví dụ: với đề toán “ Cả hai lớp 4A và 4B trồng được 600 cây. Lớp 4A trồng được ít hơn lớp 4B là 500 cây. Hỏi mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây?” ( Trang 47- SGK Toán 4). Nếu học sinh đọc không cẩn thận sẽ bỏ đi từ “ ít” thì cách hiểu bài toán lại hoàn toàn ngược lại. Chính vì thế, bước đầu tiên phải giúp học sinh đọc đề chính xác. Mặt khác, các em đọc đề tốt cũng chưa hẳn các em hiểu đề tốt. Do đó, khâu phân tích đề cũng rất quan trọng. Trong bài toán, đôi khi người ta sử dụng bằng các ngôn ngữ tự nhiên như “ bay đi”, “ cho đi”, “ ăn đi”… có nghĩa là số lượng đã được bớt đi. Hay các từ “ đổ đều”, có nghĩa là chia đều. Hay với những dạng toán tổng hiệu, tổng tỉ, hiệu tỉ. Đôi khi trong bài toán người ta không nói rõ đâu là tổng, đâu là hiệu và đâu là tỉ. Song qua việc phân tích đề bài ta phải xác định ra đâu là các dữ kiện bài toán đã cho tương ứng với từng dạng toán. Có bài toán dạng tổng tỉ như sau: Ví dụ: “Có 10 túi gạo nếp và 12 túi gạo tẻ cân nặng tất cả là 220kg. Biết rằng số gạo trong mỗi túi đều cân nặng bằng nhau. Hỏi có bao nhiêu kg gạo mỗi loại?” ( Trang 152-SGK Toán 4). Trong bài toán này các em phải hiểu được “ tổng” của hai số được thay bằng cụm từ “ nặng tất cả”, tỉ số của hai số đó chính là số túi gạo nếp và số túi gạo tẻ. Chính vì thế, trước một bài toán các em phải biết phân tích đề và đưa bài toán về các dạng toán quen thuộc để giải. Mặt khác, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong học toán có nhiều từ gần như là “ mặc định” trong đầu các em. Ví dụ các em cứ thấy từ “ nhiều hơn” là nghĩ đến phép cộng và từ “ ít hơn” là nghĩ đến phép trừ. Nên khi gặp một bài toán có các từ như thế thì các em dễ giải sai. Ví dụ bài toán: Trong đợt phát động trồng cây, lớp 4A trồng được 32 cây, lớp 4B trồng được nhiều hơn lớp 4A là 3 cây nhưng ít hơn lớp 4C là 6 cây. Hỏi trung bình mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? Có một số học sinh đã trình bày bài giải như sau: Lớp 4B trồng được số cây là: 32 + 6 = 38 ( cây) Lớp 4C trồng được số cây là: 32 – 6 = 26 ( cây) Như vậy, các em đã bị ám bởi từ “ít hơn”, từ này đã làm lạc hướng học sinh nên các em đã chọn phép tính trừ trong phép tính thứ hai, trong khi phép tính đúng là phép cộng. Thật vậy, để giúp học sinh đọc kĩ bài toán thì tôi luôn rèn cho học sinh kĩ năng đọc, đồng thời để học sinh phân tích, xác định được dạng toán thì cần phải giúp học sinh hiểu đề. Như chúng ta đã biết, mỗi đề toán thường có hai bộ phận, bộ phận thứ nhất là những điều đã cho, bộ phận thứ hai là những điều chúng ta phải tìm. Muốn giải bất kì bài toán nào thì chúng ta cũng phải xác định đúng hai bộ phận đó. Chúng ta cần giúp học sinh tập trung vào những từ quan trọng gọi là từ khóa của đề toán. Từ nào chưa hiểu thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó. Cần giúp học sinh phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất của đề toán, để từ đó hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết. Đồng thời khi giải toán tôi yêu cầu học sinh đọc đề nhiều lần, rồi hướng học sinh phân tích xem bài toán cho ta biết gì? Hỏi ta điều gì? Từ đó học sinh phân biệt được các yếu tố cơ bản của bài toán có lời văn. Những dữ kiện ( cái đã cho), những ẩn số (cái chưa biết, cần tìm), những điều kiện ( quan hệ giữa các điều kiện và ẩn số). Khi học sinh đọc đề toán mà giáo viên nhận thấy từ nào trong đề bài mà học sinh có khả năng không hiểu thì bằng nhiều cách khác nhau để giúp học sinh hiểu từ đó. Ví dụ, với bài toán đã nêu ở trên, tôi nhận thấy rằng, nếu để các em tự lực thì sẽ có nhiều em lựa chọn sai phép tính ở lời giải thứ hai. Chính vì thế, khi học sinh đọc đề và phân tích đề, tôi cho học sinh giải thích xem là em hiểu “ Lớp 4B trồng được nhiều hơn lớp 4A là 3 cây nhưng ít hơn lớp 4C là 6 cây có nghĩa là như thế nào?” Từ các lí do nêu trên cho chúng ta thấy việc đọc đề, phân tích và hiểu đề là một trong những việc làm cần thiết để giải bài toán có lời văn. Bước 2: Tóm tắt đề và lập kế hoạch giải bài toán Thật vậy, sau bước đọc đề và phân tích đề thì

Đề Tài Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 4

Mỗi môn học ở nhà trường Tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Môn Toán là môn học có vị trí rất quan trọng vì các khái niệm, quy tắc, kiến thức, kĩ năng toán có nhiều ứng dụng trong cuộc sống.

Môn Toán là một môn cần thiết cho người lao động, cần thiết để các em học tập các môn học khác ở các lớp trên. Bởi vậy việc giải toán góp phần bồi dưỡng củng cố kiến thức, kĩ năng toán học, rèn luyện phát triển óc sáng tạo và các phẩm chất tư duy cho học sinh. Có thể nói giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Toán giúp con người giải quyết các bài toán thực tế được diễn đạt bằng lời văn

Dạy học toán nói chung và dạy giải toán có lời văn nói riêng là một hoạt động trí tuệ đầy khó khăn và phức tạp, nó làm nền tảng cho việc học tiếp chương trình toán học ở các lớp trên, nhưng thực tế ỏ các trường Tiểu học hiện nay thì việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn chưa đạt kết quả cao. Cụ thể các em không có phương pháp giải và ngôn ngữ còn hạn chế nên việc hiểu nội dung, yêu cầu của bài toán có lời văn chưa được đầy đủ và chính xác; ngoài ra khả năng suy luận của học sinh tiểu học còn kém, dẫn đến việc giải toán còn gặp nhiều khó khăn. Từ đó các em ít có hứng thú giải các bài toán có lời văn bằng các bài toán có phép tính sẵn chỉ việc tính toán và điền kết quả.

Phần I: mở đầu 1. Lý do chọn đề tài . Mỗi môn học ở nhà trường Tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Môn Toán là môn học có vị trí rất quan trọng vì các khái niệm, quy tắc, kiến thức, kĩ năng toán có nhiều ứng dụng trong cuộc sống. Môn Toán là một môn cần thiết cho người lao động, cần thiết để các em học tập các môn học khác ở các lớp trên. Bởi vậy việc giải toán góp phần bồi dưỡng củng cố kiến thức, kĩ năng toán học, rèn luyện phát triển óc sáng tạo và các phẩm chất tư duy cho học sinh. Có thể nói giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Toán giúp con người giải quyết các bài toán thực tế được diễn đạt bằng lời văn Dạy học toán nói chung và dạy giải toán có lời văn nói riêng là một hoạt động trí tuệ đầy khó khăn và phức tạp, nó làm nền tảng cho việc học tiếp chương trình toán học ở các lớp trên, nhưng thực tế ỏ các trường Tiểu học hiện nay thì việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn chưa đạt kết quả cao. Cụ thể các em không có phương pháp giải và ngôn ngữ còn hạn chế nên việc hiểu nội dung, yêu cầu của bài toán có lời văn chưa được đầy đủ và chính xác; ngoài ra khả năng suy luận của học sinh tiểu học còn kém, dẫn đến việc giải toán còn gặp nhiều khó khăn. Từ đó các em ít có hứng thú giải các bài toán có lời văn bằng các bài toán có phép tính sẵn chỉ việc tính toán và điền kết quả. Chính vì những lí do đó mà tôi đã chọn đề tài: "Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4". 2. Mục đích nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này tôi hướng tới hai mục đích: + Giúp học sinh nhận dạng bài toán và lựa chọn phương pháp giải toán thích hợp để giải từng bài toán cụ thể trong quá trình học toán. + Giúp học sinh định hướng đúng đắn cách giải và trình bày bài giải một cách khoa học, chính xác, đầy đủ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Với mục đích nghiên cứu của đề tài, khi nghiên cứu tôi hướng tới đối tượng là các bài toán có lời văn trong sách giáo khoa lớp 4, đây cũng là năm đầu tiên thực hiện thay sách ở lớp 4. Phạm vị nghiên cứu: Được sự nhất trí và tao điều kiện của BGH và tổ chuyên môn tôi chọn đối tượng nghiên cứu là các em học sinh khối IV và tập trung vào các em học sinh lớp 4B do tôi phụ trách với số học sinh là : . trong đó có . nữ. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. Căn vào nội dung, mục đích của đề tài và qua thực tế giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp. Tôi nhận thấy cần phải đi sâu nghiên cứu phân loại và hệ thống các dạng toán có lời văn. Tìm ra nguyên nhân và đề ra các biện pháp khắc phục những khó khăn mà học sinh thường gặp phải khi giải các bài toán có lời văn. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: + Phương pháp thống kê + Thực nghiệm giảng dạy + Phương pháp quan sát, trò chuyện, điều tra. phỏng ván + Trao đổi với đồng nghiệp + Ngiên cứu qua tài liệu, sách giáo khoa toán, qua các tập san, sách hướng dẫn. 6. Những đóng góp của đề tài. Qua đề tài này giúp cho học sinh phân loại, nhận dạng các bài toán có lời văn; đưa ra phương pháp giải phù hợp với từng dạng toán và trình bày lời giải một cách chính xác, khoa học, đầy đủ. 7. Kết cấu của đề tài. Phần I: Mở đầu Lí do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Đóng góp mới của đề tài Phần II. Nội dung của đề tài. Chương I. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu. Sơ lược lịch sử của vấn đề Toán có lời văn được xem như cầu nối liền giữa kiến thức toán học trong nhà trường và ứng dụng kiến thức táon học trong xã hội. Thông qua việc dạy toán có lời văn ở tiểu học rèn tư duy, logic và cách diễn đạt của học sinh. Bài toán có lời văn là dạng toán phối hợp nhiều kiến thức các môn học trong nhà trường như: Tiếng Việt, tự nhiên-xã hôi. Nó góp phần xây dựng cơ sở ban đầu cho những ước mơ và niềm say mê khoa học. Cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. Bậc tiểu học là bậc học quan trọng trong việc đặt nền máng cho sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về khoa học tự nhiên và xã hội, phát triển nhân lực nhận thức , trang bị những phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng và phát huy tình cảm, thói quen, đức tính tốt đẹp của những công dân tương lai, xứng đáng là những chủ nhân của đất nước. Mục tiêu đó được thông qua việc dạy học các môn học đặc biệt là học toán ở tiểu học nói chung và dạy toán có lời văn nói riêng. Bài toán có lời văn khác với các dạng toán khác ở chỗ học sinh vừa phải định hướng cách giải, xây dựng phép tính vừa phải trình bày lời giải. Vì vậy nó đòi hỏi học sinh phải có sự tư duy logic. Các em phải tìm hiểu mối quan hệ giữa các dữ liệu với nhau, để xác định được cái đã biết và cái cần tìm. Đối với các em học sinh lớp 4, năm học này là năm học đầu tiên thực hiện chương trình thay sách, việc giải các bài toán có lời văn gặp nhiều khó khăn. Song vấn đề cần bàn ở đây là hướng dẫn các em giải toán như thế nào và dạy ra sao để học sinh nắm được cách giải toán, phương pháp giải các bài toán có lời văn. Vì vậy, rèn cho các em có kĩ năng giải toán có lời văn là việc làm rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng giảng dạy môn toán ở tiểu học. Chương: II Thực trạng của vấn đề nghên cứu. Năm học 2007-2008 tôi được phân công phụ trách lớp 4B với .. học sinh. Sau khi nhận lớp tôi đi vào tìm hiểu, điều tra thực trạng và nhận thấy những khó khăn và thuận lợi sau: * Thuận lợi: Phần lớn các em trong lớp đều ngoan có ý thức vươn lên trong học tập. Các phụ huynh đã quan tâm hơn đến việc học tập của các em và quan tâm đến sự nghiệp giáo dục của nhà trường. * Khó khăn: Đồng Tân là một xã miền núi, xa trung tâm, đa số các em là con nông dân nên sự tiếp xúc với xã hội còn hạn chế. Một số gia đình còn khó khăn về kinh tế nên việc đầu tư thời gian, đồ dùng học tập cho các em còn thiếu do đó dẫn đến việc học tập của các em chưa được quan tâm đúng mức gây ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục. Đây là năm đầu tiên thay sách lớp 4 nên việc vận dụng, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy môn toán và đặc biệt là các bài toán có lời văn có hạn chế. Sau ba tuần giảng dạy tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng. Kết quả như sau: Trong tổng số học sinh có: - Số học sinh giải đúng bài toán có lời văn: .. em - Số học sinh giải đúng nhưng chưa biết trình bày: .. em - Số học sinh chưa biết trình bày một cách chính xác, đầy đủ: .. em. Chương III. Những giải pháp của đề tài. Xuất phát từ thực tế giảmg dạy, kết quả khảo sát trên tôi đã thực hiện các bước hướng dẫn học sinh giải các bài toán có lời văn theo các bước sau. 1. Tìm hiểu đề bài. Bước này yêu cầu học sinh phải đọc kỹ đề bài, nhớ những dữ kiện bài toán đã cho một cách chính xác và nắm vững yêu cầu của đề bài. Trong quá trình này học sinh cần nhận ra bài toán đã cho thuộc dạng toán nào. Sau đó giáo viên toán tắt đề bài bằng cách đặt câu hỏi: + Bài toán cho biết gì? + Bài toán yêu cầu gì? Khi học sinh đã trả lời tôi thường giúp các em gạch chân dưới những từ quan trọng mà nhiều khi học sinh đọc không đọc kĩ đề bài nên đã bỏ sót dẫn tới làm bài sai. Tuỳ theo từng dạng bài mà có cách tóm tắt phù hợp dễ hiểu. 2. Phân tích đề bài để tìm ra cách giải. Dựa và việc nhận dạng bài toán ở bước 1, ở bước này tôi hướng dẫn học sinh cách giải bắt đầu từ yêu cầu bài toán. + Muốn giải đáp những yêu cầu của đề bài thì cần phải biết những gì? Những điều đó đề bài đã cho biết chưa? Nếu chưa biết thì tìm bằng cách nào? dựa vào đâu để tìm? Cứ lần lượt như vậy cho đến khi nào học sinh có thể tìm được cách giải đáp từ những dữ kiện cho sẵn trong đề bài. Đây là bước quan trọng vì nó giúp học sinh hiểu được cách giải bài toán. Tổng hợp lời giải. Bước này ngược với bước 2. Dựa vào bước 2 các em vạch ra được thứ tự trình bày lời giải: "Cần tìm điều gì trước, điều gì sau". Tất nhiên những gì tìm được nhờ vào những dữ kiện cho sẵn trong bài sẽ được trình bày trước để làm cơ sở cho phân tích sau. Bước này giúp học sinh trình bày lời giải một cách chặt chẽ, logic. 4. Trình bày lời giải. Đây là bước trình bày giải một cách hoàn chỉnh dựa vào bước 3. Trong chương trình Toán 4 tôi tập trung vào 3 dạng toán cơ bản để hướng dẫn học sinh. * Đối với bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỷ tôi thực hiện như sau:ư Ví dụ: Bài toán 2 (148). Hai kho thóc chứa 125 tấn, trong đó số thóc ở kho thứ nhất bằng 3/4 số thóc ở kho thứ hai. Hỏi mỗi kho chứa bao nhiêu tấn thóc? Bước 1: Tìm hiểu đề bài. Yêu cầu học sinh đọc đề nhiều lần dể xác định được dạng bài toán. + Gợi ý học sinh hiểu và toám tắt bài toán. Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? Bước 2: Phân tích đề bài Đây là bài toán dạng nào? (Bài toán về tìm hai số khi biết tổng và tỉ sô của hai số đó) Xác định số lớn, số bé: Số thóc ở kho 1 là số lớn; số thóc ở kho 2 là số bé Vậy để tìm số thóc ở mỗi kho ta phải dựa vào những dữ kiên nào? (Dựa vào tổng là 125 và tỉ số là 3/4) Bài tập: Bước 2. Phân tích đềư bài để tìm ra cách giải. Đây là bài toán dạng nào? III. Kết quả đạt được. Bằng các biện pháp dã thực hiện ở trên, tôi nhận thấy việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn ở lớp 4 của tôi có tiến bộ rõ rệt. Hầu hết tất cả các em đã có kĩ năng giải đúng, chính xác, khoa học các bài toán có lời văn. Học sinh có thói quen đọc kĩ đề bài, gạch chân dưới những dữ kiện của đè bài và toám tắt bài toán trước khi trình bày bài giải. Mọi học sinh đều được hoạt động học tậpmột cách tự giác, vận dụng bài mẫu vào làm bài tập nhanh, có kết quả cao. Học sinh hứng thú học toán, giải toán có lời văn làm cho tiết học sôi nổi, nhẹ nhàng và tự lĩnh hội, chiếm lĩnh chi thức của bài học để đạt được kết quả cao nhất. Cuối năm tôi khảo sát chất lượng học sinh bằng bài toán có lời văn kết quả như sau: + Giải đúng chính xác, đầy đủ, khoa học: em + Số còn lại là các em đã biết cách giải các bài toán có lời văn ngưng trình bày bài chưa dược chính xác, khoa học và đầy đủ. Phần III. Bài học kinh nghiệm. Trong thực tế giảng dạy và qua thời gian nghiên cứu đề tài này , tôi nhận thấy; để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh người giáo viên cần phải: + Tận tuỵ với cộng việc, nhiệt tình vời học sinh. +Tìm hiểu học sinh để phát hiện ra nguyên nhân khiến học sinh đạt được cũng như chưa đạt được kết quả trong học tập. Từ đó phat huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu ở học sinh. Người giáo viên không những phải có kiến thức vững chắc phương pháp giảng dạy hay mà giáo viên cần phải cho học sinh rèn luyện, thực hành nhiều; giáo viên không nên chữa hết các bài tập. + Luôn khảo sát, phân loại học sinh để có phương pháp giảng dạy phù hợp. Cần phải gần gũi động viên học sinh, khích lệ các em hứng thú trong học tập. + Luôn học hỏi, trao đổi kinh nghiềm với đồng nghiệp. Tôi xin trân thành cảm ơn!