Top 9 # Xem Nhiều Nhất Skkn Một Số Biện Pháp Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2 Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Asianhubjobs.com

Skkn Một Số Biện Pháp Dạy Học Sinh Lớp 2 Giải Toán Có Lời Văn

1.1. Lý do chọn đề tài: Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy Đại hội Đảng lần thứ XI đã có nghị quyết về giáo dục đó là: “Nâng cao giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.” Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục. Bộ giáo dục – đào tạo đã chủ trương đổi mới chương trình tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện giáo dục toàn diện (Đức, trí, thể, mỹ và các kỹ năng cơ bản) đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa các lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường tiểu học. Bậc tiểu học là bậc đầu tiên của hệ thống giáo dục thuộc nền văn minh nhà trường của mỗi quốc gia. Là bậc học tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho trẻ tiếp tục học lên bậc học trên, hình thành những cơ sở ban đầu tạo ra những con người có “tài”, có “đức”. Những gì thuộc về trí thức và kỹ năng về hành vi và tình người được định hình ở bậc Tiểu học và nó sẽ theo suốt cuộc đời mỗi em như : kỹ năng tính toán trong cuộc sống hằng ngày Những gì được hình thành và định hình ở trẻ rất khó thay đổi, cải tạo lại. Chính vì vậy môn Toán ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động trí tuệ rất lớn cho học sinh. [1] Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là “Lấy học sinh làm trung tâm”, người thầy là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức của học sinh, với các môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Để vận dụng tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết với nghề, phải dày công nghiên cứu tìm ra giải pháp thích hợp với đối tượng học sinh mình dạy. Qua xem xét và nghiên cứu thực tế dạy toán có lời văn của lớp 2 trường Tiểu học Quảng Lưu. Tôi thấy chỉ được khoảng 30% biết giải toán, còn 70% rất lơ mơ, lúng túng những bài toán có lời văn. Dạy học toán có lời văn là một bộ phận kiến thức toán học hoàn chỉnh cho học sinh Tiểu học. Mỗi bài toán có lời văn là một tình huống có vấn đề buộc các em phải tư duy, suy luận và phân tích tổng hợp để giải quyết vấn đề. Qua giảng dạy thực tế của lớp 2 những năm trước, tôi thấy học sinh gặp rất nhiều khó khăn về tính toán, tư duy, kĩ năng trong việc giải toán có lời văn. Chính vì những lý do trên bản thân tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiÖm về: “Một số biện pháp dạy học sinh lớp 2 giải toán có lời văn” 1.2. Mục đích nghiên cứu: – Nghiên cứu đề tài này nhằm giúp bản thân tôi cũng như đồng nghiệp có được những hiểu biết cơ bản về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 trong nhà trường Tiểu học hiện nay. Qua đề tài này tôi có điều kiện học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để tìm ra phương pháp hiệu quả nhất về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở cấp Tiểu học nói chung. – Giúp học sinh phát triển các kỹ năng giải toán có lời văn ở lớp 2 thành thạo và vận dụng được các phép tính nhân chia vào giải toán có lời văn và kỹ năng tính toán trong cuộc sống hằng ngày. Qua đó bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; hứng thú đọc sách, nghiên cứu và yêu thích học Toán. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Những biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 ở trường Tiểu học Quảng Lưu – Quảng Xương – Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp trực quan Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại) Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề [2] 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm: 2.1.Cơ sở lí luận của việc giải toán có lời văn ở lớp 2: 2.1.1. Vị trí và tầm quan trọng của môn toán lớp 2: Môn Toán là một môn học khó đối với tất cả các lớp học và giải toán có lời văn lại càng khó hơn đối với các em đầu cấp. Toán lớp 2 là môn học có vị trí gần như là nền móng, là cái gốc, là điểm xuất phát của cả một bộ môn khoa học. Các em học tốt và giải các bài toán có lời văn một cách thành thạo là điểm khởi đầu cho các môn học khác, giúp các em lớn lên nhiều em trở thành tiến sĩ, kĩ sư, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ… trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống; trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi… nhưng các em không nắm được các công thức toán học để vận dụng vào cuộc sống thường ngày thì máy xách tay, máy tính bỏ túi, điện thoại, cũng vô giá trị. Vì vậy việc học toán rất là quan trọng và những bài toán giải có lời văn ban đầu các em cần phải giải thành thạo. Từ đó giúp các em tự tin trong học toán. Đối với mạch kiến thức: “Giải toán có lời văn” là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp Tiểu học. Thông qua cách giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Giải toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. 2.1.2. Vai trò của việc dạy giải toán cho học sinh lớp 2: Với việc dạy và rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 là một việc khó và rất quan trọng của môn Toán. Thông qua dạy giải toán có lời văn, giáo viên đã giúp học sinh xác định được cấu trúc giải một bài toán có đầy đủ các phần (tóm tắt, bài giải, câu lời giải, phép tính và đáp số). Giúp học sinh dễ tìm hiểu những nội dung có trong bài toán và qua đó góp phần giáo dục học sinh về mọi mặt. Mặt khác, học sinh hiểu và biết cách giải bài toán có lời văn ngay từ lớp 2 sẽ thuận lợi hơn khi theo học các lớp trên và áp dụng giải những bài tập khó hơn, phức tạp hơn. 2.1.3. Nội dung chương trình của toán lớp 2 loại bài toán giải có lời văn: Chương trình Toán 2 gồm 175 tiết, trong đó có đưa phần ôn tập về dạng toán thêm, bớt ở lớp 1 và phần lớn là ở 2 dạng toán mới về giải toán có lời văn (Bài toán về nhiều hơn – Bài toán về ít hơn) vào học kỳ I và chia thành hai giai đoạn: – Giai đoạn 1: Giải các bài toán có lời văn bằng một phép tính cộng. – Giai đoạn 2: Giải các bài toán có lời văn bằng một phép tính trừ. [3],[4],[5] 2.2. Thực trạng: 2.2.1 Tình hình địa phương và nhà trường: Quảng Lưu là một xã nằm ở phía đông huyện Quảng Xương là một xã thuộc vùng khó của huyện Quảng Xương. Nền kinh tế của nhân dân còn thấp, chưa đồng đều. Bố mẹ chủ yếu đi làm ăn xa, để con ở nhà với ông bà, thậm chí có em ở nhà với anh, chị cũng là học sinh cấp 1, 2. Điều kiện kinh tế còn khó khăn nên chưa có điều kiện quan tâm đến việc học tập của con. Đa số học sinh ngoài giờ học còn phải giúp bố mẹ công việc gia đình. Có lẽ vì vậy mà thời gian học ở nhà của các em ít và không được sự bố mẹ hướng dẫn thêm cho các em học ở nhà. Những hạn chế này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập nói chung đối với môn toán nói riêng và đặc biệt là việc học giải toán có lời văn của học sinh. Để nâng cao chất lượng của học sinh, tôi đã chú trọng đến các môn học nói chung và nhất là môn toán, một môn học khó đối với học sinh. Trọng tâm hơn là chú trọng đến việc học giải toán có lời văn tốt hơn. 2.2.2. Thực trạng của việc tố chức dạy học rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2: * Những việc làm được: – Về giáo viên: Những năm học gần đây, chất lượng môn toán ngày càng đi lên kể cả chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn. Bam giám hiệu đã chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học trong đó có môn toán. Bam giám hiệu đã tổ chức cho giáo viên dạy đối chứng chuyên đề, thăm lớp dự giờ đồng nghiệp để nâng cao tay nghề. Qua những tiết dự giờ đồng nghiệp, bản thân tôi muốn học sinh trường Tiểu học Quảng Lưu giải toán có lời văn tốt hơn nữa nên tôi ứng dụng biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học lớp 2E, lớp tôi chủ nhiệm và giảng dạy.. – Về học sinh: Lớp tôi chủ nhiệm có 32 em học sinh, đa số các em ngoan, chăm học. Đầu năm học, tôi đã kiểm tra đồ dùng học tập, sách, vở của từng em nên lớp tôi 100% học sinh có đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập phục vụ các môn học. Lớp tôi có khoảng 32% học sinh trong diện tiếp thu bài nhanh ở môn toán. Tôi đã xây dựng được nề nếp học tập trong lớp. Các em đã có thói quen học tập cá nhân, học theo nhóm, đôi bạn cùng tiến bộ. * Những việc chưa làm được: – Đối với giáo viên: Những tiết dự giờ đồng nghiệp trong trường, qua các vòng thao giảng để chọn giáo viên dạy giỏi cấp trường và qua những năm tháng giảng dạy, tôi nhận thấy phương pháp dạy dạng giải toán có lời văn ở một số giáo viên chưa phù hợp với đối tượng học sinh lớp 2. Từ cách dẫn dắt, diễn đạt của giáo viên còn lúng túng, khó hiểu đối với học sinh và hình thành cho học sinh giống như một bài mẫu để học sinh bắt chước. Phương pháp truyền thống theo lối mòn chủ yếu của giáo viên là đọc đầu bài cho học sinh nghe, (hoặc nhìn sách) rồi sau đó gợi ý học sinh tìm lời giải một cách chung chung không cụ thể, học sinh không hiểu bắt đầu viết lời giải như thế nào? Dựa vào đâu?… Vì vậy chưa khắc sâu được kiến thức cho học sinh dẫn đến học sinh còn lúng túng trong cách giải, giải sai. – Đối với học sinh: Học sinh lớp 2, bước đầu các em mới được làm quen và giải toán có lời văn về dạng “Thêm – Bớt”. Các em còn lúng túng trong cách giải, vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Hơn nữa một số học sinh chưa biết cách tự học, chưa tự giác trong học tập còn phải nhắc nhở, đôn đốc. Có em có thể viết được phép tính và tính đúng kết quả của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra cách giải, chưa biết trình bày bài giải một cách đầy đủ, diễn đạt còn quá vụng về, thiếu lôgic. Một số em học toán và giải toán một cách máy móc, bắt chước bài mẫu, chưa linh động, sáng tạo trong giải toán có lời văn. Học sinh còn lẫn lộn giữa giải toán có lời văn với thực phép hiện tính, chưa phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm trong giải bài toán có lời văn. Qua khảo sát thực tế chất lượng giải toán có lời văn ở lớp 2E, lớp tôi chủ nhiệm và lớp 2B do cô Nguyễn Thị Hà chủ nhiệm giữa kì 1, năm học 2017 – 2018 như sau: Đề bài: Câu 1: Hà có 25 que tính, Lan có nhiều hơn Hà 5 que tính. Hỏi Lan có bao nhiêu que tính? Câu 2: Giải bài toán có tóm tắt sau: – Hướng dẫn học sinh tóm tắt: 10 viên bi Hùng: 3 viên bi Cường: ? viên bi Kết quả khảo sát lần 1 Lớp Sĩ số Học sinh làm bài tốt Học sinh làm đúng phép tính, sai lời giải(hoặc đúng lời giải, sai phép tính Học sinh chưa hiểu cách làm bài giải, làm sai cả lời giải và phép tính 2B 30 em SL TL SL TL SL TL 14 46,7% 10 33,3% 6 20% 2E 32 em 13 40,6% 11 34,4% 8 25% Từ kết quả khảo sát chất lượng ở hai lớp, tôi thấy số học sinh làm sai phép tính và lời giải chiếm tỷ lệ khá cao, lớp 2B: 6em/ 20%; Lớp 2E: 8 em/25%. Phần lớn là học sinh gặp khó khăn trong việc tìm câu lời giải cho bài toán, có nhiều em quên ghi đơn vị ở kết quả của phép tính và ở đáp số. * Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế trên: Ở lớp 1 các em mới được làm quen với giải toán có lời văn về dạng toán “Thêm – Bớt”, các em còn lúng túng trong việc giải toán. Lên lớp 2, ngay đầu năm các em được ôn lại phần giải toán có lời văn về dạng “Thêm – Bớt”. Và bắt đầu từ tuần 5, các em chuyển sang dạng giải toán có lời văn “Bài toán về nhiều hơn”. Dạng toán này, các em chỉ được học trong 2 tiết, các em chưa nắm vững cách giải dạng toán này lại tiếp tục học dạng mới về giải toán dạng “Bài toán về ít hơn”. Vì vậy một số em còn lẫn lộn giữa dạng toán “Thêm – Bớt”, dạng toán “Bài toán về nhiều hơn” và dạng toán “Bài toán về ít hơn”. Một số em còn nhút nhát, không tự tin, không chịu suy nghĩ tìm tòi lời giải. Các em chưa mạnh dạn trao đổi với bạn, với cô giáo khi chưa hiểu yêu cầu của bài nên hiểu thế nào làm thế ấy dẫn đến làm sai. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề dạy giải toán có lời văn ở lớp 2: 2.3.1. Đối với giáo viên dạy lớp 2: – Để giảng dạy tốt môn Toán lớp 2 nói chung và giảng dạy phần “Giải bài toán có lời văn” nói riêng, việc đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa. – Luôn học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, có đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. – Lựa chọn câu hỏi sao cho gần gũi với lời giải, học sinh chỉ cần thay đổi chút ít về từ để được câu lời giải thích hợp. – Gợi mở bằng cách cài “cốt câu” lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt mà viết câu lời giải. – Khuyến khích học sinh tìm ra cách nêu câu lời giải khác nhau cho lời giải. Ví dụ: Em hái được 12 bông hoa, chị hái đươc nhiều hơn em 5 bông hoa. Hỏi chị hái được bao nhiêu bông hoa? Học sinh có thể đặt lời giải theo rất nhiều cách như: + Chị hái được số bông hoa là: …….. + Số bông hoa chị hái được là: ………. 2.3.2. Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước làm toán có lời văn lớp 2 và khắc phục những lỗi sai khi giải toán có lời văn lớp 2: Qua đề tài này, tôi hy vọng giúp cho giáo viên đang giảng dạy ở lớp 2 trường Tiểu học Quảng Lưu hướng dẫn học sinh khắc phục những lỗi sai khi giải toán có lời văn với nội dung thực tế gần gũi và gắn liền với cuộc sống đời thường của học sinh, trong đó có các dạng giải toán có lời văn: – Bài toán về nhiều hơn. – Bài toán về ít hơn. Qua kinh nghiệm 28 năm công tác, tôi nhận thấy học sinh thường mắc những lỗi sai khi giải toán có lời văn như sau: Ví dụ: Tấm vải xanh dài 52cm, tấm vải đỏ dài hơn tấm vải xanh 6cm. Hỏi tấm vải đỏ dài bao nhiêu xăng – ti – mét? – Sai về đặt lời giải (hoặc dùng từ chưa chính xác) như: Học sinh có thể đặt lời giải cho bài giải như sau: Tấm vải xanh dài mấy cm: Hoặc: Tấm vải đỏ dài mấy xăng – ti – mét: – Sai về phép tính (Hoặc kết quả của phép tính chưa đúng) như: 52 – 6 = 46 (cm) Hoặc: 52cm + 6cm = 58(cm) – Thiếu đơn vị đo ở phép tính như: 52 + 6 = 52 – Có học sinh khi giải bài toán quên không ghi đáp số (Hoặc thiếu đơn vị đo ở đáp số) Để giúp học sinh lớp 2 khắc phục những lỗi sai trên về giải toán có lời văn, tôi tiến hành theo 5 bước sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán: Thông qua việc đọc bài toán, học sinh phải đọc kĩ để hiểu rõ bài toán cho biết gì? Cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Khi đọc bài toán phải hiểu rõ tình huống toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường sau đó học sinh “thuật lại vắn tắt bài toán mà không cần đọc lại nguyên văn đề bài, đó là bước 1. Bước 2: Tóm tắt bài toán: Là bước quan trọng để thể hiện phần trọng tâm và toát lên những cái phải tìm của đề bài. Bước 3: Tìm tòi cách giải bài toán: Gắn liền với việc phân tích các giữ liệu, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác lập mối liên hệ giữa chúng và tìm được các phép tính số học thích hợp. Minh họa bài toán bằng tóm tắt đề toán, dùng sơ đề hoặc dùng mẫu thích hợp, tranh, ảnh Lập kế hoạch giải bài toán, có hai hình thức thể hiện: Đi từ câu hỏi của bài toán đến với số liệu, hoặc đi từ số liệu đến các câu hỏi của bài toán. Ví dụ: Giang hái được 24 quả cam, Sơn hái được nhiều hơn Giang 5 quả cam. Hỏi Sơn hái được bao nhiêu quả cam? Xuất phát của bài toán đến giữ kiện: – Bài toán hỏi gì? (Giang hái được bao nhiêu quả cam?) – Có thể biết ngay chưa? Vì sao? – Có thể biết được số quả cam Sơn hái được nhiều hơn Giang bao nhiêu quả cam chưa? Vì sao? – Vậy việc đầu tiên các em phải tìm cái gì? – Tiếp theo là làm gì? Bằng cách nào? Đã trả lời lời câu hỏi của bài toán chưa? Xuất phát từ giữ kiện đến câu hỏi của bài toán. Kết quả cuối cùng có phải là đáp số của bài toán không? Bước 4: Thực hiện cách giải: Bài giải Sơn hái được số quả cam là: 24 + 5 = 29 (quả) Đáp số: 29 quả cam Bước 5: Cách giải bài toán: Phân tích cách giải đúng hay sai, sai ở chỗ nào để sửa chữa. *) Hướng dẫn học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn, thông qua ví dụ sau: Ví dụ: Lan hái được 15 bông hoa, Huệ hái được nhiều hơn Lan 4 bông hao. Hỏi Huệ hái được bao nhiêu bông hoa? Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán: – Bài toàn này thuộc loại toán nào? – Đề bài cho chúng ta biết gì? – Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bước 2: Tóm tăt đề toán: Biểu thị số bông hoa bằng sơ đồ đoạn thẳng 15 bông hoa 4 bông hoa Lan Huệ ? bông hoa – Tìm cách giải bài toán: Nhìn vào tóm tắt cho thấy Huệ có nhiều hơn Lan 4 bông hoa. – Muốn tìm số bông hoa của Huệ ta phải làm thế nào? Thực hiện cách giải bài toán: Bài giải Huệ hái được số bông hoa là: 15 + 4 = 19 (bông) Đáp số: 19 bông hoa Ví dụ: Phương Chi được cô giáo thưởng 10 quyển vở, Ánh Ngọc được cô giáo thưởng ít hơn Phương Chi 3 quyển vở. Hỏi Ánh Ngọc được cô giáo thưởng mấy quyển vở? – Hướng dẫn học sinh tóm tắt: 10 quyển vở Phương Chi: 3 quyển vở Ánh Ngọc: ? quyển vở Bài giải Ánh Ngọc được cô giáo thưởng số quyển vở là: 10 – 3 = 7 (quyển) Đáp số: 7 quyển vở – Kiểm tra bài giải: Qua ví dụ trên em nào biết: Muốn làm một bài toán có lời văn thì ta phải thực hiện mấy bước? (Thực hiện 5 bước) – Học sinh xây dựng thành ghi nhớ. – Giáo viên ghi lên bảng từng bước sau đó gọi 1, 2 học sinh đọc to cho cả lớp nghe. 2.3.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp để dạy dạng bài: “Giải bài toán có lời văn” ở lớp hai: * Phương pháp trực quan: Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 2 thường sử dụng phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó tìm ra đường lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 2 có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan. [2] * Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại): Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm cách giải, chữa bài làm của học sinh, nhận xét đánh giá bài làm của bạn … Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh trả lời như: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Bài toán yêu cầu tìm gì. Gợi mở để dẫn dắt học sinh thông qua những dữ kiện đã biết để tìm cái chưa biết, cần tìm. Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học giải toán có lời văn lớp 2 nói riêng phải sử dụng phương pháp nàythật khéo léo, nhẹ nhàng, dùng các từ ngữ dễ hiểu để gợi ý để học sinh dễ hiểu và các em mới nhớ lâu. [2] * Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề: Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này. Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải. Hoặc giáo viên cho phần biết – học sinh tự nêu phần hỏi và giải bài toán hay ngược lại. 2.3.4. Đổi mới phương pháp dạy học:   Lứa tuổi học sinh lớp 2, lứa t

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 2 Giải Toán Có Lời Văn

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở Tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Trong nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy việc dạy giải toán có lời văn trong chương trình toán bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng là hết sức cần thiết, ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn hạn chế về mặt suy luận, phân tích nên việc dạy giải toán có lời văn ở tiểu học sẽ góp phần giúp cho học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú và hình thành khả năng giải toan có lời văn, đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt môn toán sau này ở các cấp học trên. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: – Nghiên cứu sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ năng để nắm được chương trình của toán lớp 2. Trên cơ sở lí luận thực tiễn phân tích những ưu điểm, tồn tại để tìm ra những biện pháp, giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy mạch kiến thức giải toán có lời văn. – Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh khi giải toán có lời văn. – Đề xuất biện pháp khắc phục những sai lầm cho học sinh khi giải toán có lời văn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: – Phương pháp dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn lớp 2. – Học sinh lớp 2 trường tiểu học Xuân Lập – Thọ Xuân. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: – Phương pháp điều tra: + Thông qua việc dự giờ của giáo viên cùng khối trong đơn vị và dự giờ môn toán của giáo viên các khối khác để học tập, rút king nghiệm cho bản thân. + Căn cứ vào kết quả làm bài của học sinh ở các tiết dạy trên lớp và điểm kiếm tra định kì cuối kì 1, cuối kì 2 giáo viên đánh giá, đối chiếu số liệu học sinh hoàn thành mục tiêu môn học để có biện pháp phù hợp, kịp thời với từng đối tượng học sinh. B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán, đáp ứng theo yêu cầu của chương trình, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em rất nhiều việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Ta thấy rằng, giải toán ở Tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lôgíc. Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc. Thực tế tôi thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số. Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?… Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 1. Thực trạng chung: – Đa số các đồng chí giáo viên đã xác định được việc dạy “giải toán có lời văn” trong chương trình môn toán lớp 2 là rất quan trọng nên các đồng chí chuẩn bị bài rất chu đáo trước khi lên lớp, nhiều đồng chí đã chịu khó đầu tư, tìm tòi nghiên cứu để giờ dạy đạt kết quả cao. – Học sinh được trang bị kiến thức ngay từ cuối năm lớp 1 nên cũng có nhiều thuận lợi cho việc giải toán ở lớp 2. – Đa số học sinh có ý thức học tập tốt, có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập phục vụ cho việc học tập của các em. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số lỗi mà giáo viên và học sinh còn mắc phải như: 2. Thực trạng đối với giáo viên. – Khi dạy giải toán cho học sinh, giáo viên mới chỉ cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản mà sách giáo khoa đã biên soạn, giáo viên chưa chú trọng việc ra bài tập cho học sinh làm thêm, phụ đạo thêm để học sinh được luyện tập nhiều, chưa dành thời gian để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành. – Giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi mà chỉ chú ý đến việc cho học sinh ghi nhớ công thức và giải quyết một cách máy móc nên hiệu quả giảng dạy chưa cao. – Nhiều giáo viên trong giờ dạy chưa chú trọng đến cả ba đối tượng, số học sinh nắm bắt kiến thức không đồng đều, chất lượng đại trà chưa cao, nên chưa phát huy được khả năng phát triển toán học của các em. 3. Thực trạng đối với học sinh. Khi giải toán đơn học sinh còn giải toán một cách thụ động, máy móc theo yêu cầu của giáo viên, học sinh chỉ biết giải những bài toán cụ thể chưa biết linh hoạt so sánh và liên hệ với các bài toán khác. – Khi gặp những bài toán có dữ liệu “không tường minh” học sinh thường hay lúng túng do chưa hiểu rõ đề bài và chưa có kĩ năng phân tích đề toán. – Nhiều học sinh đọc còn chưa thông nên việc đọc kĩ đề toán là một việc khó khăn nên dẫn đến giải bài toán sai. – Nhiều em lựa chọn lời giải chưa hay, chưa phù hợp với nội dung bài toán. – Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp 4. Kết quả của thực trạng trên: Qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm của 34 em học sinh lớp 2 tôi thu được kết quả như sau: Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 4 11,7 8 23,5 10 29,5 12 35,3 Qua kết quả điều tra thực trạng trên tôi nhận thấy đây là kiến thức trọng tâm của chương trình toán 2 mà còn rất nhiều học sinh nắm chưa vững. Đây là vấn đề cần phải khắc phục ngay để giúp các em có đầy đủ kiến thức chuẩn bị cho việc học toán ở các lớp trên và giúp các em vận dụng vào tính toán trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy tôi đã tìm ra cách khắc phục thực tế trên trong việc dạy giải toán cho học sinh lớp 2 như sau: III. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN: 1. Giải pháp chung: Giải pháp 1: Nắm vững nội dung chương trình toán 2. Giải pháp 2: Giúp học sinh có kĩ năng giải tốt một số dạng toán có lời văn trong chương trình toán 2. Giải pháp 3: Tăng cường luyện tập các bài toán có lời văn cho học sinh. Giải pháp 4: Dạy học quan tâm đồng đều đến tất cả các đối tượng học sinh. Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ toán. 2. Các biện pháp tổ chức thực hiện: 2.1. Biện pháp 1: Nghiên cứu chương trình toán 2, sau đó phân loại các dạng bài trong phần giải toán có lời văn ở lớp 2. Được phân công dạy lớp 2 nhiều năm tôi đã nghiên cứu và nắm vững nội dung chương trình toán 2. Tôi nhận thấy: Trong phần giải các bài toán có lời văn được lồng ghép, xuyên suốt trong toàn bộ chương trình. Ở tất cả các tiết học hầu như đều có ít nhất một bài toán có lời văn. Qua nghiên cứu, tôi đã lọc ra một số dạng bài toán có lời văn thường gặp ở lớp 2 như sau: Dạng 1: Tìm số bị trừ. Ví dụ: Trên bờ có một số con vịt. Khi 8 con vịt đã xuống ao thì còn lại 7 con vịt. Hỏi trên bờ lúc đầu có bao nhiêu con vịt? Dạng 2: Bớt đi 1 số đơn vị ở mỗi số. Ví dụ: Gà đẻ được 51 quả trứng. Mẹ đã lấy 6 quả để làm món ăn. Hỏi còn bao nhiêu quả trứng? Dạng 3: Tìm số hạng chưa biết. Ví dụ: Cả cam và quýt có 45 quả trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt? Dạng 4: Tìm số trừ. Ví dụ: Một bến xe có 35 ôtô, sau khi một số ôtô rời bến thì trong bến còn lại 10 ôtô. Hỏi có bao nhiêu ôtô rời bến? Dạng 5: Bài toán về nhiều hơn, ít hơn. (hoặc thêm, bớt) + Lớp 2A có 15 bạn gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3 bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai ? + Tháng trước tổ em có 16 bạn được khen, tháng này tổ em có nhiều hơn tháng trước 5 bạn được khen. Hỏi tháng này tổ em có bao nhiêu bạn được khen? … 2.2. Biện pháp 2: Hình thành kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh qua một số dạng bài : Dạng 1: Tìm số bị trừ. Ví dụ: Trên bờ có một số con vịt. Khi 8 con vịt đã xuống ao thì còn lại 7 con vịt. Hỏi trên bờ lúc đầu có bao nhiêu con vịt? Tôi đã hướng dẫn học sinh giải dạng toán này như sau: Bước 1 : Đọc và phân tích đề bài: Đối với dạng toán này yêu cầu học sinh tìm hiểu kĩ nội dung đề bài để hiểu rõ bài toán cho biết gì? ( Trên bờ có một số con vịt, có 8 con vịt xuống ao, còn lại 7 con vịt) Khi đọc xong bài này học sinh phải hiểu kĩ từ “xuống ao” và thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho để tóm tắt đề toán. Giáo viên cho học sinh tự tìm tòi và tự tóm tắt theo cách hiểu của mình, sau đó giáo viên đưa ra cách tóm tắt phù hợp nhất. Tóm tắt: Trên bờ có: ? con vịt Đã xuống ao: 8 con vịt Còn lại : 7 con vịt Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán. Từ bước 2 tôi đã diễn giải để học sinh tìm cách giải như sau: ? – 8 = 7 Số vịt trên bờ Số vịt xuống ao Số vịt còn lại Giáo viên Học sinh ? Bài toán này yêu cầu ta tìm gì? – Số vịt lúc đầu trên bờ Giáo viên phân tích cho học sinh nhận ra các thành phần trong phép trừ. – Học sinh quan sát ? Hãy nhắc lại cho cô các thành phần trong phép tính trừ? – Số bị trừ – số trừ = hiệu ? Nhìn vào sơ đồ em thấy bài toán yêu cầu tìm gì? – Số bị trừ ? Muốn tìm số bị trừ ta làm như thế nào? – Ta lấy hiệu + số trừ ? Đối với bài toán này ta làm như thế nào? – Lấy số vịt còn lại + số vịt đã xuống ao. Bước 4: Thực hiện tính theo trình tự để viết bài giải. – Học sinh tự tìm ra lời giải của bài toán. Bài giải + Số vịt trên bờ lúc đầu là (câu lời giải được ghi dưới dạng mệnh đề khẳng định) Hoặc: Trên bờ có số vịt là: 7 + 8 = 15 ( con vịt) Đáp số: 15 con vịt Bước 5: Kiểm tra lời giải, phép tính và đáp số. – Học sinh nêu ra lời giải của mình. – Học sinh nhận xét lời giải của bạn. – Giáo viên đưa ra lời giải đúng. – Học sinh tự sửa chữa bài của mình. – Học sinh có thể giải bằng cách khác (nếu có). Dạng 2: Bớt đi 1 số đơn vị ở mỗi số. Ví dụ: Gà đẻ được 51 quả trứng. Mẹ đã lấy 6 quả để làm món ăn. Hỏi còn bao nhiêu quả trứng? Tôi cũng hướng dẫn giải theo các bước sau: Bước 1: Đọc và phân tích đề bài ? Bài toán cho biết gì ? – Gà đẻ được 51 quả trứng, lấy đi 6 quả làm món ăn. ? Bài toán hỏi gì? – Còn lại bao nhiêu quả trứng. Tôi chú ý giải thích cho học sinh hiểu được từ ” lấy đi” có nghĩa là ” bớt đi” Bước 2: Tóm tắt đề bằng ngôn ngữ Gà đẻ: 51 quả trứng. Lấy đi: 6 quả trứng. Còn lại: ? quả trứng. Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán. ? Muốn biết còn lại bao nhiêu quả trứng ta làm như thế nào? ( Lấy số quả trứng có lúc đầu (51 quả) trừ đi Số trứng lấy đi ( 6 quả)). Bước 4: Giải bài toán Học sinh đặt lời giải ứng với yêu cầu của đề bài Bài giải Số quả trứng còn lại là: 51 – 6 = 45 (quả) Đáp số: 45 quả trứng. Bước 5: Kiểm tra bài giải. Học sinh tự đánh giá bài của mình và của bạn bằng cách đổi chéo vở để kiểm tra kết qủa cho nhau (dựa trên kết quả đúng mà giáo viên đã đưa ra nhận xét trên bảng) Dạng 3: Tìm số hạng chưa biết. Ví dụ: Cả cam và quýt có 45 quả trong đó có 25 quả cam. Hỏi có bao nhiêu quả quýt? Bước 1: Đọc và phân tích đề bài. ? Bài toán cho biết gì? (45 quả vừa cam, vừa quýt, có 25 quả cam). ? Bài toán hỏi gì? ( Có bao nhiêu quả quýt) Bước 2: Tóm tắt bài toán. Bài toán này tóm tắt bằng ngôn ngữ ngắn gọn. 45 quả 25 quả cam. ? quả quýt. Bước 3: phân tích bài toán để tìm cách giải. Bài toán có thể biểu diễn như sau: 25 quả cam + ? quả quýt = 45 quả. ? Nêu tên gọi và thành phần của phép tính trên – Số hạng + số hạng = tổng ? Phép tính yêu cầu gì? – Tìm số quả quýt (Chính là số hạng chưa biết ) ? Muốn tìm số hạng chưa biết ta làm như thế nào? – Lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. ? Áp dụng bài toán này ta làm như thế nào? – Lấy 45 quả trừ đi 25 quả ta tìm được số quả quýt. Bước 4: Giải bài toán ? Bài tập yêu cầu chúng ta tìm gì? – Tìm số quả quýt ? Lời giải bài toán như thế nào? – Số quả quýt có là : ? Nêu phép tính thích hợp? 45 – 25 = 20 ( quả quýt) Bước 5: Kiểm tra bài giải. Học sinh tự kiểm tra lời giải của mình bằng cách so sánh bài của mình với bài của bạn và bài của cô giáo. Dạng 4: Tìm số trừ. Ví dụ: Một bến xe có 35 ôtô, sau khi 1 số ôtô rời bến thì trong bến còn lại 10 ôtô. Hỏi có bao nhiêu ôtô rời bến? Bước1: Đọc và phân tích đề bài. ? Bài toán cho biết gì? – Bến xe có 35 ôtô. Còn lại 10 xe ô tô. ? Bài toán hỏi gì? – Có bao nhiêu xe đã rời bến. Đối với bài này tôi phân tích cho học sinh hiểu các từ ” có”, ” rời bến” và mối liên hệ giữa các từ này. Bước 2: Tóm tắt đề bài. Tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng ngôn ngữ ngắn gọn như sau: Có : 35 ôtô Rời bến : ? ôtô Còn lại: 10 ôtô Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán Bài toán có thể viết thành: Có – Rời bến = Còn lại 35 ôtô ? ôtô 10 ôtô ? Hãy cho biết tên gọi các thành phần trong phép trừ? – Số bị trừ, số trừ, hiệu ? Muốn tìm số trừ ta làm như thế nào? – Lấy số bị trừ trừ đi hiệu? ? Vậy muốn tìm số ô tô rời bến ta làm như thế nào? – Lấy số ô tô có (35 ô tô) trừ đi số ô tô còn lại ( 10 ô tô) Bước 4 : Giải bài toán ? Bạn nào đặt cho cô lời giải bài toán này? ( số ô tô rời bến là) Học sinh giải bài toán vào vở. Bài giải Số ôtô rời bến là: 35 – 10 = 25 ( ôtô) Đáp số: 25 ôtô Bước 5: Kiểm tra bài giải So sánh bài của mình và bài của bạn hoặc bài giải của giáo viên để có kết quả đúng. Dạng 5: Bài toán về nhiều hơn, ít hơn. Ví dụ: Hoà có 4 bông hoa, bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. Hỏi Bình có mấy bông hoa? – Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán: + Bài toán này thuộc dạng toán nào? + Đề bài cho chúng ta biết cái gì? + GV hướng dẫn cho HS tìm hiểu bước 2. – Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán: 4 bông hoa Biểu thị số bông hoa bằng sơ đồ đoạn thẳng. 2 bông hoa Hoà: Bình: ? bông hoa + Tìm cách giải bài toán: Nhìn vào tóm tắt cho thấy Bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. – Muốn tìm số bông hoa của Bình thì ta phải tìm thế nào? * Thực hiện cách giải: Bình có số bông hoa là: 4 + 2 = 6 ( bông ) Đáp số: 6 bông hoa. * Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? (Bài tập 1, Tr. 30- SGK Toán 2) 17 cây – Hướng dẫn HS tóm tắt: Vườn nhà Mai: 7 cây Vườn nhà Hoa: ? cây Bài giải: Vườn nhà Hoa có số cây cam là: 17 – 7 = 10 (cây) Đáp số: 10 cây cam. 2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn qua thực hiện qua các bước cụ thể. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: Để học sinh lớp 2 thực hiện tốt các bài tập giải toán có lời văn thì giáo viên cần cung cấp hướng dẫn học sinh thực hiện thuần thục các bước giải bài toán. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy trên lớp, tôi luôn chú ý hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải của bài toán có lời văn như sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán. Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả” Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại: “ Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán Bước 2: Tìm cách giải bài toán. a. Chọn phép tính giải thích hợp: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép tính cộng” nếu bài toán yêu cầu “ nhiều hơn” hoặc “ gộp”, “ tất cả”. Chọn “ phép tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm phần còn lại” hay là “ít hơn” Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi ý như: + Bài toán cho biết gì? ( Vườn nhà Mai có 17 cây cam) + Bài toán còn cho biết gì nữa? (Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây) + Bài toán hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam) + Muốn biết vườn nhà Hoa

Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN TOÁN

––

Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS Dương Hữu Tòng

Lâm Thị Mĩ Kim Ngành: Sư phạm Tiểu học Khóa: 37 MSSV: 1110305

Cần Thơ, tháng 04 năm 2015

z

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN TOÁN

––

Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS Dương Hữu Tòng

Lâm Thị Mĩ Kim Ngành: Sư phạm Tiểu học Khóa: 37 MSSV: 1110305

Cần Thơ, tháng 04 năm 2015

LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, rèn luyện tại Trường Đại học Cần Thơ, dưới sự hướng dẫn và giảng dạy của các Thầy Cô cùng với sự giúp đỡ của các bạn, em đã học hỏi và tích lũy được nhiều vốn kiến thức quý báu. Vốn kiến thức này đã giúp em rất nhiều trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn. Và chắc chắn rằng, đó cũng sẽ là một hành trang vững chắc để em có thể trở thành một người giáo viên tốt. Hoàn thành Luận văn này, em xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy Cô Trường Đại học Cần Thơ, đã truyền thụ cho em những kiến thức và kinh nghiệm quý báu. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy Dương Hữu Tòng, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ để em có thể hoàn thành Luận văn này. Cuối cùng, em xin cảm ơn các Thầy Cô trường Tiểu học Ngô Quyền đã luôn tạo điều kiện giúp em tiến hành Thực nghiệm để hoàn tất quá trình nghiên cứu.

Em xin chân thành cảm ơn. Kính chúc quý Thầy Cô và các bạn thật nhiều sức khỏe và thành công trong công việc !

Cần Thơ, tháng 4 năm 2015 Người viết

Lâm Thị Mĩ Kim

MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Phạm vi và đối tượng của nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu 6. Tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề 7. Cấu trúc luận văn 8. Một số từ ngữ được viết tắt trong Luận văn

NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 1. Một số đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học 1.1.

Những thay đổi của trẻ khi bắt đầu đi học

1.2.

Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học

1.3.

Đặc điểm nhân cách của học sinh Tiểu học

1.3.1

Tính cách của học sinh Tiểu học

1.3.2 Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học 1.3.3 Đặc điểm đời sống tình cảm 2. Khái quát chương trình toán Tiểu học 2.1 Sự giống nhau và khác nhau giữa 2 giai đoạn dạy học toán ở Tiểu học 2.1.1

Sự giống nhau giữa 2 giai đoạn các lớp 1,2,3 và giai đoạn các lớp

4,5 của dạy Toán ở Tiểu học

2.1.2. Sự khác nhau giữa hai giai đoạn các lớp 1,2,3 và giai đoạn các lớp 4,5 của dạy học toán ở tiểu học. 2.2. Trình độ chuẩn của học sinh về giải toán có lời văn ở các lớp bậc tiểu học. 3. Một số phương pháp dạy học được sử dụng. 3.1. Phương pháp giảng giải 3.2. Phương pháp đàm thoại 3.3. Phương pháp trực quan 3.4. Phương pháp thực hành luyện tập 4. Dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học 4.1 Ý nghĩa của việc dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học 4.2 Cấu trúc của một bài toán có lời văn 4.2.1 Các thành phần của một bài toán có lời văn 4.2.2 Cấu trúc của bài toán 4. 3 Các bước cơ bản để giải một bài toán có lời văn 4.3.1 Bước 1: Đọc kĩ đề bài 4.3.2 Bước 2: Tóm tắt đề toán 4.3.3 Bước 3: Phân tích bài toán để lập kế hoạch giải 4.3.4 Bước 4: Thực hiện phép tính theo trình tự đã thiết lập và viết bài giải. 4.3.5 Bước 5: Kiểm tra bài giải và đánh giá kết quả 4.4 Các dạng toán có lời văn ở tiểu học 4.4.1 Dạng bài toán đơn 4.4.1.1 Phân loại

4.4.1.2 Cách dạy học giải toán đơn 4.4.2 Dạng bài toán hợp 4.4.2.1 Phân loại 4.4.2.2 Cách dạy học giải toán hợp 4.4.3 Dạng toán điển hình 4.4.3.1 Phân loại 4.4.3.2 Cách dạy học giải toán điển hình 4.5 Một số phương pháp giải toán 4.5.1 Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng 4.5.2 Phương pháp rút về đơn vị – Phương pháp tỉ số 4.5.3 Phương pháp chia tỉ lệ 4.5.4 Phương pháp giả thuyết tạm 4.5.5 Phương pháp tính ngược từ cuối 4.5.6 Phương pháp thay thế 4.6 Phương pháp suy luận thường dùng trong giải toán có lời văn ở tiểu học 4.6.1 Phương pháp phân tích (Phân tích đi lên) 4.6.2 Phương pháp tổng hợp (Phân tích đi xuống) 4.7 Phương pháp tóm tắt một bài toán 4.7.1 Phương pháp tóm tắt dùng sơ đồ đoạn thẳng 4.7.2 Phương pháp dùng sơ đồ khối 4.7.3 Phương pháp tóm tắt dùng ngôn ngữ ngắn gọn 4.7.4 Phương pháp tóm tắt dùng hình tượng trưng 4.7.5 Phương pháp tóm tắt dùng công thức bằng lời 4.7.6 Phương pháp tóm tắt bằng lưu đồ 4.7.7 Ví dụ 4.8 Quy định cách trình bày bài giải toán ở tiểu học 4.8.1 Cách ghi các phép tính giải 4.8.2 Cách ghi câu lời giải 4.8.3 Cách ghi trình bày bài giải

CHƯƠNG III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 1. Mô tả thực nghiệm 1.1 Mục đích thực nghiệm 1.2 Nội dung thực nghiệm 1.3 Đối tượng thực nghiệm

1.4 Thời gian thực nghiệm 1.5 Hình thức thực nghiệm 2. Tổ chức thực nghiệm 2.1 Tiến hành thực nghiệm 2.1.1 Tường thuật các tiết dạy thực nghiệm 2.1.2 Tổ chức kiểm tra 3. Kết luận 4. Giáo án đề nghị

KẾT LUẬN PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy môn toán nói riêng là một yêu cầu cần thiết trong tình hình hiện nay. Trong các môn học ở bậc tiểu học, môn toán chiếm thời lượng lớn trong các môn học (sau môn Tiếng Việt). Việc đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và dạy học toán nói riêng là việc làm cần thiết và cấp bách theo hướng phát triển tính tích cực của học sinh. Trong quá trình làm gia sư dạy toán lớp 2, em đã quan sát và nhận thấy các kiến thức số học, đại lượng, đo đại lượng và các yếu tố hình học tương đối gần gũi với học sinh nên các em ít gặp khó khăn. Nhưng khi làm quen với dạng toán có lời văn, học sinh thường lúng túng, không biết cách tóm tắt đề toán hoặc tóm tắt sai do không biết bài toán đã cho biết gì và yêu cầu gì, hướng giải quyết bài toán ra sao ?… Ngoài ra các em còn gặp khó khăn trong việc diễn đạt bằng lời và trình bày bài giải khi viết. Sự đổi mới một cách toàn diện cả về nội dung chương trình lẫn phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải có cách nhìn đúng về dạy học toán. Qua đó giúp học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo trong hoạt động học tập. Nhưng trong quá trình giảng dạy còn nhiều giáo viên lạm dụng phương pháp giảng giải trong dạy học toán, chưa phát huy được hết vai trò của học sinh trong quá trình học tập, chưa tập cho học sinh có thói quen suy nghĩ, tìm hiểu nội dung bài để học sinh tiếp thu kiến thức. Từ thực tế đó càng làm cho học sinh khó tiếp nhận các bài toán có lời văn, dẫn đến việc tiếp thu kiến thức của học sinh một cách thụ động, không có hứng thú tham gia giải các bài toán có lời văn, dẫn đến kết quả học tập ở dạng toán náy chưa cao. Do đó, là người giáo viên tương lai em rất quan tâm về vấn đề này và em quyết định chọn đề tài ” Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 ” với mong muốn góp phần vào việc hình thành kĩ năng giải toán có lời văn và lòng say mê học toán cho các em. Đồng thời phát triển tư

duy và nâng cao hiệu quả học tập của học sinh, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học.

2. Mục đích nghiên cứu – Tìm hiểu những khó khăn, sai sót của học sinh trong việc giải toán có lời văn. Phân tích nguyên nhân sai sót và đề ra biện pháp khắc phục. – Tìm hiểu thuận lợi, khó khăn của giáo viên và học sinh khi giải toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2. – Thông qua đề tài giúp học sinh ham học toán từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của giờ học toán đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. – Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của bản thân. 3. Phạm vi và đối tượng của nghiên cứu – Phạm vi nghiên cứu: Các hoạt động giảng dạy và học tập với nội dung là giải toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2 ở trường Tiểu học. – Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2 trong quá trình học tập cách giải các bài toán có lời văn. 4. Phương pháp nghiên cứu – Phương pháp nghiên cứu lý luận. – Phương pháp quan sát. – Phương pháp điều tra, giáo dục. – Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. – Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 5. Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu Giúp học sinh nắm vững cách giải các bài toán có lời văn trong chương trình toán 2. Cụ thể là: – Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn về cộng, trừ, trong đó có bài toán về “nhiều hơn”, “ít hơn” một số đơn vị ; các bài toán đơn về nhân, chia (phép tính trong bảng nhân, chia phạm vi 5). – Nội dung dạy học “Giải toán có lời văn” ở lớp 2 được tăng cường học phương pháp dạy toán (cách tìm hiểu đề bài, cách giải quyết vấn đề, và cách

trình bày bài giải…). Ngoài ra học sinh còn được phát triển khả năng diễn đạt (diễn đạt bằng lời nói và viết các câu lời giải, hoặc trình bày một vấn đề…). – Nội dung dạy học “Giải toán có lời văn” được cấu trúc hợp lí, xen kẽ các mạch kiến thức khác, làm nổi bật mạch kiến thức số học. – Nội dung các bài toán có lời văn phong phú, đa dạng hơn và gần với thực tế đời sống xung quanh các em; Có các bài toán khi giải quyết cần đến kĩ năng đo đại lượng “cân, đo, đong, đếm” với các đơn vị mét, xăng-ti-mét, ki-lô-mét, ki-lô-gam, lít…thường gặp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày… – Cách trình bày một bài giải toán được hoàn chỉnh hơn. – Tích cực hóa vấn đề sử dụng phương pháp dạy học. – Điều tra thực trạng việc học tập của học sinh. – Vận dụng vào thực tiễn dạy học: Giải toán có lời văn ở lớp 2 bao gồm: + Bài toán về nhiều hơn. + Bài toán về ít hơn. + Các bài toán vận dụng trực tiếp ý nghĩa của các phép tính (được tích hợp trong các mạch kiến thức khác). 6. Tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề – Qua đề tài giúp các em học sinh nắm vững kiến thức khi giải các bài toán có lời văn. – Giúp giáo viên có thêm một vài kinh nghiệm và dạy tốt các bài toán có lời văn trong chương trình toán 2. 7. Cấu trúc luận văn Mở đầu Nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. Chương 2: Thực trạng tình hình của vấn đề rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. Chương 3: Những biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2.

Chương 4: Thực nghiệm sư phạm. Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục 8. Một số từ ngữ được viết tắt trong Luận văn

STT

Viết tắt

Viết nguyên văn

1

GV

Giáo viên

2

HS

Học sinh

3

SGK

Sách giáo khoa

NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 1. Một số đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học 1.4.

Những thay đổi của trẻ khi bắt đầu đi học

Trước khi bước vào trường phổ thông, trẻ đang phát triển để hoàn thiện các cấu trúc tâm lí của con người, bởi hoạt động chủ đạo là vui chơi mà chưa thể hiện được bất kì trẻ đang tiến vào bước ngoặc mới với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo . Hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo trong suốt thời kì mẫu giáo, nay những yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh để tiến tới giữ vị trí chủ đạo khi trẻ bắt đầu đến trường. Bước vào trường phổ thông là một bước ngoặc trong đời sống của trẻ. Đó là sự chuyển qua lối sống mới với những điều kiện hoạt động mới, chuyển qua những quan hệ với người lớn và bạn bè cùng tuổi. Khi đến trường trẻ là một học sinh đang thực hiện nghĩa vụ xã hội trao cho bằng hoạt động học tập nghiêm túc. Hoạt động tập làm thay đổi một cách cơ bản những động cơ của hoạt động trẻ, nó mở ra những nguồn phát triển mới của sức mạnh nhận thức và đạo đức của trẻ. Hoạt động học phải được xem là đối tượng để lĩnh hội sau đó, để trở thành phương tiện tiếp thu trí thức, kinh nghiệm khoa học. Hoạt động học bắt đầu nảy sinh ở lớp 1 và lớp 2, hình thành ở lớp 3 và dần định hình ở lớp 5. 1.5.

Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học

Tri giác của học sinh tiểu học mang tính chất đại thể ít đi sâu vào chi tiết và mang tính chất không chủ định . Khả năng phân tích một cách có tổ chức và khi tri giác ở học sinh các lớp đầu bậc Tiểu học còn yếu, các em thường thâu tóm sự vật

về toàn bộ, về đại thể để tri giác. Ví dụ : Các em khó phân biệt hình 5 cạnh với hình 6 cạnh. Tuy vậy ta cũng không nên nghĩ rằng các em chưa có khả năng phân tích để tách các dấu hiệu các chi tiết nhỏ của một đối tượng nào đó. Tri giác không chủ định vẫn chiếm ưu thế ở học sinh Tiểu học. Các em chưa tri giác đúng đơn vị, độ dài và còn nhìu khó khăn khi tri giác khoảng cách( học sinh chưa ước lượng đúng độ dài m và Km). Tri giác thời gian phát triể n chậm so với tri giác không gian. Chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế so với chú ý có chủ định. Những kích thích có cường độ mạnh vẫn là một trong những mục tiêu thu hút sức chú ý của trẻ. Trí nhớ của các em còn mang tính trực quan-hình tượng và được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ logic. Học sinh đầu cấp thường có khuynh hướng ghi nhớ máy móc bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần. Ở học sinh Tiểu học việc ghi nhớ các tài liệu trực quan hình tượng có hiểu quả nhất. Tư duy của trẻ mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức, dựa vào đặc điểm bên ngoài. Nhờ vào hoạt động học tập, tư duy mang dần tính khái quát.Hoạt động mang tính tổng hợp còn sơ đẳng, việc học Tiếng Việt và Toán giúp các em biết phân tích và tổng hợp. Trẻ thường gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả. Tưởng tượng còn tản mạn, ít có tổ chức, hình ảnh tưởng tượng thì đơn giản hay thay đổi. Tưởng tượng tái tạo từng bước hoàn thiện. 1.3

Đặc điểm nhân cách của học sinh Tiểu học

1.3.2

Tính cách của học sinh Tiểu học

Nét tính cách của học sinh Tiểu học mới hình thành chưa ổn định. Hành vi của trẻ mang tính xung động cao và ý chí còn thấp. Tính cách điển hình của trẻ là hồn nhiên và cả tin, trẻ thích bắt chước hành vi của những người xung quanh hay trên phim ảnh. Học sinh Tiểu học ở Việt Nam có thái độ và thói quen tốt với lao động.

1.3.2 Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học đã phát triển khá rõ nét từ nhu cầu tìm hiểu những sự vật hiện tượng riêng lẻ( lớp 1 và lớp 2), đến nhu cầu phát hiện những nguyên nhân, quy luật về các mối liên hệ, quan hệ ( lớp 3,4,5). Nhu cầu đọc sách phát triển cùng với việc phát triển kỉ xảo đọc. Cần phải hình thành nhu cầu nhận thức cho trẻ ngay từ sớm. 2.1.2 Đặc điểm đời sống tình cảm Đối tượng gây xúc cảm, tình cảm của các em gắn liền với trực quan, hình ảnh cụ thể. Học sinh Tiểu học rất dễ xúc cảm, xúc động và khó kìm hãm xúc cảm của mình. Tình cảm của học sinh Tiểu học còn mong manh, chưa bền vững, chưa sâu sắc. Sự chuyển hóa xúc cảm nhanh. Việc hiểu đặc điểm tâm lí học sinh giữ vai trò quan trọng trong quá trình dạy học. Nếu chúng ta tác động vào đối tượng mà không hiểu tâm lí của chúng thì cũng như đập búa vào một thanh sắt nguội. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên cần phải dựa vào những đặc điểm tâm lí đối tượng để lựa chọn và xây dựng những phương pháp dạy học mới mang lại hiệu quả như mong muốn. 2. 2.1.

Khái quát chương trình toán Tiểu học Sự giống nhau và khác nhau giữa 2 giai đoạn dạy học toán ở Tiểu học

giáo dục khác ( như những hiểu biết về tự nhiên và xã hội, giáo dục môi trường, giáo dục về an toàn giao thông…) được sự tích hợp với các nội dung của môn Toán theo các định hướng học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường gắn với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Ở cả 2 giai đoạn, học sinh đêu được chuẩn bị phương pháp tự học Toán dựa vào hoạt động tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Với sự trợ giúp của các đồ dùng học toán, của Sách giáo khoa…học sinh tự tập dợt, tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức mới, kết hợp học các nhân với học hợp tác trong nhóm, trong lớp, thực hiện học gắn với thực hành, vận dụng một cách linh hoạt dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên. Với cách chuẩn bị phương pháp tự học toán như trên, học sinh không chỉ biết cách tự học mà còn phát triển ngôn ngữ (nói, viết) để diễn đạt chuẩn xác, ngắn gọn và đầy đủ các thông tin để giao tiếp khi cần thiết; không chỉ bước đầu phát triển các năng lực tư duy( phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khói quát hóa đúng mức) mà còn từng bước hình thành tư duy phê phán, biết lựa chọn và tìm cách giải quyết hợp lí vấn để đã phát hiện được. Thời lượng dạy học Toán trong mỗi tiết, mỗi tuần lễ, mỗi năm học từ lớp 2 đến lớp 5 đều giống nhau(mỗi tiết học có thể kéo dai từ 35 đến 40 phút; mỗi tuần lễ có 5 tiết học Toán; mỗi năm có 175 tiết học Toán) riêng ở lớp 1, mỗi tuần lễ chỉ có 4 tiết học Toán Trong Sách giáo khoa toán từ lớp 1 đến lớp 5 thường có các dạng sau : tiết dạy học bài mới, tiết luyện tập chung, tiết thực hành, tiết ôn tập. Riêng tiết kiểm tra định kì chỉ giới thiệu trong sách giáo viên để giáo viên tham khảo. 2.1.2. Sự khác nhau giữa hai giai đoạn các lớp 1,2,3 và giai đoạn các lớp 4,5 của dạy học toán ở tiểu học. Giai đoạn các lớp 1,2,3 có các đặc điểm là: Việc dạy học cá kiến thức và kĩ năng cơ bản của môn Toán thường gắn với các sự vật, hiện tượng cụ thể, với sự trợ giúp đúng mức của các đồ dùng học tập, các vật thực, các mô hình trực quan, tranh ảnh,…học sinh chỉ nhận biết “cái toàn thể”, “cái riêng lẻ” chứ chưa nhận ra được các mối quan hệ, các tính chất quan trọng của sự vật, hiện tượng. Hầu hết các

kiến thức và kĩ năng được sắp xếp theo kiểu “đồng tâm mở rộng”, từ đơn giản và cụ thể đến phức tạp hơn, khái quát hơn và trừu tượng hơn. Giai đoạn các lớp 4,5 có các đặc điểm là: Việc dạy môn Toán vẫn tập trung vào các kiến thức và kĩ năng cơ bản nhưng ở mức sâu hơn, trừu tượng , khái quát hơn và tường minh hơn các lớp 1,2,3. Nhiều kiến thức có thể coi là trừu tượng, khái quát đối với các học sinh lớp 1,2,3 thì đến lớp 4,5 lại trở nên cụ thể, trực quan và thường được dùng làm chổ dựa để học các lớp 4,5 đã được nâng lên một bậc so với các lớp 1,2,3. Từ đầu lớp 4, học sinh có thể nhận biết và vận dụng một số tính chất của số, phép tính, hình học ở dạng khái quát và tường minh hơn so với lớp 3. Trong mỗi giai đoạn (nêu trên) đều có khoảng thời gian chuyển tiếp. Chẳng hạn, ở giai đoạn các lớp 1,2,3 thì khoảng thời gian đầu lớp 1 có sự chuyển tiếp từ giai đoạn xem vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ (ở các lớp mẫu giáo) sang giai đoạn xem học tập là hoạt động chủ đạo của trẻ, đến cuối lớp 3 lại có thời gian chuyển tiếp từ giai đoạn học tập cơ bản sang giai đoạn học tập sâu. Với vấn đề trên đòi hỏi giáo viên dạy Toán phải có phương pháp dạy và cách tổ chức dạy học phù hợp với năng lực của từng đối tượng học sinh. 2.2. Trình độ chuẩn của học sinh về giải toán có lời văn ở các lớp bậc tiểu học. * Lớp 1: – Nhận biết bước đầu về cấu tạo của bài toán có lời văn. – Biết giải các bài toán về thêm, bớt (giải bằng một phép cộng hoặc một phép trừ) và trình bày bài giải gồm: câu lời giải, phép tính, đáp số. * Lớp 2: – Biết giải và trình bày bài giải một số bài toán đơn (có một bước tính) về cộng, trừ trong đó có các bài toán về “nhiều hơn”, “ít hơn” một số đơn vị. – Biết giải và trình bày bài giải một số bài toán đơn về nhân, chia; Chủ yếu là các bài toán tìm tích của hai số trong phạm vi các bảng nhân 2,3,4,5 và các bài

Tóm lại, giải toán có lời văn từ lớp 1 đến lớp 5 được nâng cao dần từ đơn giản đến phức tạp và mỗi lớp có đặc điểm riêng. Lớp sau luôn có sự kế thừa, bổ sung và phát triển hơn các lớp trước. Chính điều đó đã tạo nên một mạch kiến thức xuyên suốt trong chương trình giải toán có lời văn ở tiểu học, nó thể hiện tính đồng tâm của chương trình toán ở tiểu học. 3. Một số phương pháp dạy học được sử dụng. 3.1. Phương pháp giảng giải Khái niệm: phương pháp giảng giải (hay thuyết trình) là phương pháp giảng dạy trong đó giáo viên dùng lời nói sinh động và chính xác để đưa ra vấn đề vừa giải thích nội dung vấn đề cho học sinh tìm hiểu và tiếp thu dễ dàng. Ưu điểm : Tiết kiệm thời gian, giáo viên có thể dễ tiến hành. Trong một thời gian ngắn có thể truyền thụ kiến thức cho học sinh. Nhược điểm : Thuyết trình bằng lời nói quá lâu khiến cho học sinh dễ thụ động, mệt mỏi. Nhất là đối với các em học sinh nhỏ. 3.2. Phương pháp đàm thoại Khái niệm: Phương pháp đàm thoại (hay hỏi đáp) là phương pháp giảng dạy trong đó giáo viên nêu vấn đề, đặt câu hỏi cho học sinh trả lời, trên cơ sở ấy giáo viên giúp học sinh rút ra kết luận. Ưu điểm: Phát huy được tính tích cực của học sinh, làm cho lớp thêm sinh động. Rèn luyện được năng lực tư duy, khả năng diễn đạt. Nhược điểm: Tốn nhiều thời gian. 3.3. Phương pháp trực quan Khái niệm: Phương pháp trực quan lá phương pháp giảng dạy dựa trên cơ sở những hình ảnh cụ thể: Hình vẽ, đồ vật và hình ảnh thực tế xung quanh để hình thành kiến thức cho học sinh.

Ưu điểm: Bổ sung vốn hiểu biết cho học sinh, cung cấp chỗ dựa cho hoạt động tư duy; giúp học sinh dễ chú ý để từ đó các em có thể nắm các tri thức trừu tượng một cách vững chắc. Đồng thời giúp học sinh phát triển khả năng tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng của các em. Nhược điểm: Không nên lạm dụng trực quan vì việc đó chẳng những làm tốn nhiều thời gian mà còn hạn chế khả năng hình thành các biểu tượng của các em. 3.4. Phương pháp thực hành luyện tập Khái niệm: Phương pháp thực hành luyện tập là phương pháp dạy học thông qua các hoạt động thực hành luyện tập của học sinh để giúp các em nắm vững các kiến thức và hình thành kĩ năng mới. Ưu điểm: Phát huy được tốt nhất tính độc lập của học sinh. Do đó đây là phương tiện tốt nhất để thực hiện nguyên lí giáo dục. Nhược điểm: Tốn nhiều thời gian. 4. Dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học Phần lớn nội dung trong SGK là dành cho các bài toán, vì các khái niệm và các quy tắc nói chung đều được giảng dạy thông qua các ví dụ bằng số và giải các bài toán. Kết quả học tập của môn Toán cũng được đánh giá thông qua kỹ năng tính toán vá giải các bài Toán. Do đó, trong môn Toán ở Tiểu học, việc dạy học giải toán có một vị trí quan trọng. 4.1 Ý nghĩa của việc dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học Trong môn toán ở tiểu học, các bài toán có lời văn có ý nghĩa rất quan trọng. – Việc giải toán giúp học sinh hình thành, củng cố, vận dụng kiến thức, kỹ năng các mảng kiến thức của toán học. – Giải toán từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận; rèn luyện cho học sinh thói quen làm việc có kế hoạch và khoa học; óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo; khả năng trình bày và diễn đạt ý kiến của bản

Một Số Biện Pháp Rèn Kỹ Năng Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 5

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM "MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 " Quảng Bình, tháng 2 năm 2013 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM "MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 " Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Liên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Tùng Quảng Bình, tháng 2 năm 2013 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1.1. Cơ sở lí luận: Cùng với các môn học khác, môn Toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Môn Toán là một môn học được xem như công cụ để học các môn học khác, là "chìa khóa" mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo cho học sinh tiểu học. Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Bởi học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất cho hoạt động trí tuệ của học sinh. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Nhiều năm qua tôi được phân công giảng dạy lớp 5, bản thân tôi nhận thấy: Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Qua thực tế giảng dạy cho HS lớp 5, có khoảng 70% - 85% học sinh chưa thành thạo về giải toán có lời văn. Với những lý do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp năm nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán logic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5" để nghiên cứu với mục đích xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn nói riêng và môn toán lớp 5 nói chung. 2. PHẠM VI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: - Đối tượng: Học sinh lớp 5. - Thời gian áp dụng: Năm học 2011 - 2012 và năm học 2012 - 2013 (Trong học kì I). - Giả thuyết khoa học: Nếu sáng kiến này áp dụng thành công thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5, góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục học sinh trong nhà trường. Nếu thành công, rất mong được áp dụng cho trong tất cả các lớp ở trường tôi và các trường bạn. II. PHẦN NỘI DUNG 1. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU: 1.1. Một số đặc điểm tình hình nhà trường, giáo viên và học sinh: * Thuận lợi: - Trường có một khu vực chính 16 lớp và một khu vực lẻ có 2 lớp. Nhìn chung cơ sở vật chất, khuôn viên, các điều kiện và phương tiện dạy học ngày càng được cải tạo, tăng trưởng, từng bước đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, giáo dục hiện nay. - Trường là một đơn vị có thành tích đáng tự hào trong công tác giáo dục - đào tạo trong mấy năm gần đây. Từ năm đến ...năm... liên tục đạt danh hiệu trưưòng tiên tiến cấp huyện và được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức I năm 20.. và được kiểm tra công nhận lại vào tháng năm 2008. - Tập thể giáo viên trường tôi là một tập thể sư phạm vững mạnh và đoàn kết, thực sự tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, tất cả vì học sinh thân yêu. Tổng số cán bộ giáo viên là 30 người đều đạt chuẩn và trên chuẩn. - Đa số các em là con em nông dân, thật thà chất phác và chăm học. - Nhận thức của địa phương, phụ huynh về giáo dục ngày càng đổi mới. * Khó khăn: - Mấy năm học gần đây tôi được phân công dạy lớp 5. Học sinh lớp tôi phần lớn là con nông dân, ngoài việc làm ruộng bố mẹ hay đi làm ăn xa để kiếm thêm thu nhập nên một số em phải ở nhà với ông bà. Điều kiện kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên các em chưa thực sự được bố mẹ quan tâm đúng mức, tất cả mọi việc học của con đều phó mặc cho nhà trường. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Nhất là với môn Toán số lượng học sinh yếu còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao, có những học sinh không hiểu được đề bài toán nên làm cho có, dẫn đến kết quả của bài toán sai khá nhiều. Để thực hiện được vấn đề này, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình học sinh lớp tôi ngay khi được phân công. Trước tiên tôi xem sổ chủ nhiệm năm học trước đồng thời tôi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm rõ hơn. Sau đó tôi cho học sinh kiểm tra lại để phân loại từng đối tượng học sinh. 1.2. Số liệu thống kê: Đầu mỗi năm học tôi luôn tự khảo sát chất lượng môn Toán của lớp mình với kết quả như sau: năm học 2012 - 2013 (vì tỉ lệ học sinh yếu môn Toán chịu ảnh hưởng rất lớn ở phần bài tập giải toán có lời văn). Thời gian khảo sát Tổng số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL Năm học 2011-2012 27 3 8 8 8 Năm học 2011-2012 25 2 8% 7 28% 7 28% 9 36% * Nhận xét: Qua số liệu thống kê cho thấy số học sinh đạt loại giỏi rất ít, số học sinh đạt trung bình và yếu khá cao. Điều đó cho thấy học sinh chưa nắm vững về cách giải toán có lời văn. 1.3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5: - Kĩ năng đọc đề, phân tích đề của HS còn hạn chế. Học sinh đọc đề vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm của đề toán không chịu phân tích đề toán khi đọc đề. - Kĩ năng nhận dạng toán, nắm các bước giải trong từng dạng toán còn lúng túng. Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá vấn đề và tư duy của học sinh còn hạn chế khi gặp những bài toán phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ. - Chưa biết lập kế hoạch giải bài toán. - Kĩ năng đặt lời giải, kĩ năng tính toán của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Một số em biết tìm ra phép tính đúng nhưng khi đặt lời giải thì còn lúng túng và có khi đặt lời giải cho bài toán chưa hợp lý. - Học sinh chưa được luyện tập thường xuyên, nên thường nhầm lẫn giữa các dạng toán. - Đa số giải toán có lời văn thường tập trung ở các đối tượng học sinh khá giỏi nên thói quen của các đối tượng HS trung bình và yếu là bỏ qua các bài toán giải hoặc làm cho có, không có động não suy nghĩ. Từ thói quen lười suy nghĩ dẫn đến hiệu quả thấp. - Trí nhớ của các em chưa thoát khỏi tư duy cụ thể nên còn ngại khó khi gặp các bài toán phức tạp. Từ đó dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao. - Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan. Ngoài ra, còn có những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng trong cách trình bày nhất là với các bài toán giải có lời văn phức tạp. - Thực tế trong một tiết dạy 35 phút, vừa dạy bài mới, vừa làm bài tập và các bài toán có lời văn thường ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều nên học sinh chưa khắc sâu kiến thức, chưa nắm được mẹo để giải bài toán. - Một số học sinh gia đình còn khó khăn nên chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình dẫn ... thì học sinh phải nắm vững các quy tắc tính toán. Nhưng trong thực tế ngay cả những học sinh đã nắm vững các quy tắc tính toán vẫn có thể phạm lầm lẫn, sai sót... để tránh được những lầm lẫn, sai sót đáng tiết ấy cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính. Ví dụ: Để kiểm tra xem tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn có đúng là 125% không, các em lấy 125% nhân với số tiền vốn 42.000 đồng. Nếu ra đúng kết quả là số tiền sau khi bán rau là 52.500 đồng thì kết quả tìm được là đúng. Cụ thể: 125/100 x 42.000 = 52.500 đồng. 2. 3. Đảm bảo phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh khi học giải toán: - Trong quá trình dạy giải toán cho học sinh lớp 5, giáo viên không nên dẫn dắt quá sâu mà nên hướng dẫn tìm hiểu cách giải bằng những câu hỏi khéo léo cho học sinh tự mày mò ra con đường để tìm ra phương pháp giải toán. - Tự sửa bài tập bằng cách đối chiếu với bài của các bạn trong nhóm, bài sửa của lớp. Tự đánh giá bài làm của mình. Biết lắng nghe nhận ra điểm đúng, điểm sai qua bài làm của bạn, biết so sánh và tự sửa được bài làm một cách rõ ràng, sạch đẹp, khoa học. - Học và nắm được các dạng bài, học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà chu đáo, thi đua học tập giữa các bạn, các nhóm trong lớp. Nắm chắc các tính chất, các quy tắc đã được học. Biết vận dụng các quy tắc để giải bài một cách có hiệu quả. - Biết tự đặt ra các câu hỏi để nhờ bạn, nhờ cô giáo giải đáp nhằm làm rõ thêm kiến thức bài học. 2.4. Trong tiết học giáo viên cần chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh: - Giáo viên phải phân loại được đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu kém (chưa thành thạo về kĩ năng giải toán), phải làm cho mọi học sinh trong lớp biết dựa vào đề toán để tóm tắt, phân tích đề một cách chính xác, tìm được cách giải thích hợp. Giáo viên phải nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó giúp học sinh phát triển năng lực, sở trường cá nhân. Chẳng hạn, một bài toán giáo viên cùng cho cả lớp tìm hiểu, tóm tắt, xây dựng kế hoạch giải. Để những học sinh khá giỏi làm xong cách 1 thì các em suy nghĩ cách giải 2, 3. làm như vậy thì mới phát huy hết khả năng của từng em, tạo không khí học tập cho cả lớp tránh trường hợp học sinh khá giỏi làm xong ngồi chơi ảnh hưởng đến các bạn khác trong lớp. 2.5. Sử dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học: - Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học ở từng tiết dạy Toán có những đặc điểm riêng, không thể áp dụng một cách máy móc, đồng loạt. Không có phương pháp nào là "vạn năng". Chỉ có sự tìm tòi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới đạt được thành công trong mỗi bài dạy. Giúp cho học sinh nhận ra các kiến thức đã học hoặc một số kiến thức mới trong nội dung các bài tập đa dạng và phong phú để các em tự khai thác, khám phá tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái, lôgic, hợp lý, giúp học sinh tự luyện tập, thực hành theo khả năng riêng của mình. - Dựa vào đặc thù tâm lý học sinh mau chán nếu tiết học cứ đều đều. Vì thế giáo viên cần luôn thay đổi không khí tiết học bằng những phương pháp, hình thức tổ chức khác nhau cho tiết học sôi nổi, tạo không khí thoải mái, xây dựng môi trường toán học tự nhiên, gắn liền với thực tế, tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh. - Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập. - Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học. - Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập. - Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học. - Trong giảng dạy phải lắng nghe, thấu hiểu tâm sinh lí của học sinh, động viên khuyến khích kịp thời, nghiêm khắc kiên quyết phê bình thái độ lơ là đối với nhiệm vụ học tập. Luôn tạo cho học sinh sự hứng thú, tính sáng tạo, linh hoạt, tự tin trong làm bài. - Tổ chức tốt hình thức học tập theo nhóm, tùy theo tính chất và nội dung của bài học, tiết học mà có thể chia nhóm như sau: phân nhóm học sinh có đủ trình độ (khá, giỏi, trung bình, yếu) để học sinh giúp đỡ lẫn nhau hoặc nhóm theo trình độ (nhóm học sinh khá giỏi, nhóm học sinh trung bình, nhóm học sinh yếu). - Học sinh phải được hướng dẫn học tập bằng hình thức "học mà chơi, chơi mà học", thực hành để phát hiện kiến thức. * Hiệu quả của sáng kiến: Qua quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm "Phát huy tính tích cực trong dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5", tôi đã áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy, học sinh lớp tôi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Những học sinh yếu toán (có lời văn) có sự tiến bộ rõ rệt. Kết quả được thống kê như sau: * Năm học 2011 - 2012: Thời gian TS HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm 1-4 SL TL SL TL SL TL SL TL Giữa kì I 27 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì I 27 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% Giữa kì II 27 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì II 27 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% * Năm học 2012 - 2013: Thời gian TS HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm 1-4 SL TL SL TL SL TL SL TL Giữa kì I 25 3 16% 9 36% 6 24% 7 28% Cuối kì I 25 5 20% 10 40% 6 24% 4 16% Thực tế giảng dạy cho tôi nhận thấy việc sử dụng phát huy tính tích cực trong giải toán là một phương pháp rất tốt và khoa học, mang lại hiệu quả cao. Đồng thời giúp học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và khả năng suy luận logic, vận dụng tri thức và kĩ năng thực hành vào thực tiễn. Cũng thông qua giải toán luyện cho học sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch. Chất lượng học tập môn toán của lớp tôi tăng dần, các học sinh yếu toán có lời văn ban đầu rất sợ học toán nhưng dần dần học được và yêu thích học toán. III. PHẦN KẾT LUẬN 1.Ý nghĩa của sáng kiến: Với kết quả trình bày ở trên, có thể khẳng định việc phát huy tính tích cực trong dạy học giải toán cho học sinh lớp 5 cơ bản đã thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của sáng kiến. Đồng thời nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện giải toán (có lời văn) đối với việc phát triển tư duy cho học sinh, rèn luyện cho các em kĩ năng tính toán. Việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi nắm vững hơn về nội dung và phương pháp dạy học toán ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Trên cơ sở đó, bản thân cũng hiểu hơn về tính ưu việt của phương pháp dạy học mới, thấy được sự cấp bách, vận dụng vào việc giảng dạy và cũng hiểu được những khó khăn, vấp váp của học sinh lớp 5 khi học giải toán có lời văn. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học toán và nhận thấy rằng: - Hầu hết học sinh có năng lực, hứng thú học tập môn toán, kĩ năng tính toán nhanh, chính xác, hiểu bài, đạt yêu cầu với tỉ lệ khá cao. Tỉ lệ giỏi toán cao hơn các môn học khác. - Trong tiết học, học sinh thường thể hiện năng lực sáng tạo, ham học, tự tin, hứng thú khi tự mình tìm ra kiến thức mới, có tinh thần tích cực xây dựng bài. - Giáo viên áp dụng kiểu dạy học "lấy học sinh làm trung tâm" khá tích cực, sinh động và hiệu quả góp phần không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các em - những mầm non tương lai của đất nước. MỤC LỤC Nội dung Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU 3 1. Lí chọn đề tài 6 2. Phạm vi áp dụng sáng kiến II. PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu 7 7 1.1. Về tình hình học sinh lớp 5B 7 1.2. Số liệu thống kê 7 1.3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5B 8 2. Các giải pháp: 9 2.1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung về các bước giải các bài toán có lời văn 9 2.2. Tổ chức thực hiện 14 2.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải một số dạng toán có lời văn trong chương trình lớp 5 16 2.4. Kết quả 25 III. PHẦN KẾT LUẬN 26 1.Ý nghĩa của sáng kiến 26 2. Kiến nghị 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO STT Tên tài liệu Tác giả Nhà xuất bản Năm xuất bản 1 Sách giáo khoa Toán 5 Vũ Văn Dương Nguyễn Thị Bình NXBGD Hà Nội 2006 2 Giáo trình dạy học môn Toán ở Tiểu học Đỗ Trung Hiệu Đỗ Đình Hoan Vũ Dương Thụy Vũ Quốc Chung NXB Đại học Sư phạm 2006 3 Sách bài soạn Toán 5 Nguyễn Tuấn Lê Thu Huyền Nguyễn Thị Hương Đoàn Thị Lan NXBGD Hà Nội 2007 4 Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 5 Ngô Trần Ái Nguyễn Quý Thảo NXBGD Hà Nội 2007