Top 14 # Xem Nhiều Nhất Soạn Bài Em Bé Thông Minh Lời Giải Hay Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Asianhubjobs.com

Soạn Bài Em Bé Thông Minh

Soạn bài Em bé thông minh

Bố cục:

– Đoạn 1 (Từ đầu … lỗi lạc): Vua sai quan tìm người tài.

– Đoạn 2 (tiếp … láng giềng): Những thử thách chứng tỏ sự thông minh của cậu bé.

– Đoạn 3 (còn lại): Cậu bé làm trạng nguyên.

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 74 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Hình thức sử dụng câu đố trong để thử tài nhân vật khá phổ biến trong truyện cổ tích. Tác dụng:

– Tạo ra những tình huống thú vị, li kì để phát triển câu chuyện

– Mang lại sự hấp dẫn cho truyện kể

– Là tình huống để nhân vật bộc lộ trí thông minh và khả năng của mình.

Câu 2 (trang 79 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Sự mưu trí của em bé được thể hiện qua 4 lần:

– Lần 2: Dùng chính lí lẽ của nhà vua để vua thừa nhận sự phi lí của mình

– Lần 3: Đố lại nhà vua

– Lần 4: Dùng kinh nghiệm dân gian để giải đố

⇒ Những cách lý giải của em bé thông minh rất hóm hỉnh, lý thú khi:

+ Làm cho người ra câu đố tự nhìn thấy sự phi lý của câu đố

+ Khéo léo chuyển thế bí sang cho người đố

+ Sử dụng kiến thức thực tế để giải đố, khiến người chứng kiến và người nghe thán phục trí tuệ hơn người của em.

Câu 4 (trang 74 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Ý nghĩa truyện em bé thông minh:

– Truyện đề cao giá trị của trí tuệ, ca ngợi sự thông minh, nhanh nhẹn của con người.

– Trí thông minh phải được đúc rút từ kinh nghiệm cuộc sống và vận dụng trực tiếp vào đời sống.

– Truyện tạo ra nhiều tình huống hóc búa, li kì

Luyện tập

Bài 1 (trang 74 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Kể diễn cảm truyện

Bài 2 (trang 74 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Sưu tầm các câu chuyện em bé thông minh từ tập truyện Thần đồng đất Việt.

Bài giảng: Em bé thông minh – Cô Trương San (Giáo viên VietJack)

Bài giảng: Em bé thông minh – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Hướng Dẫn Soạn Văn Em Bé Thông Minh

Hướng dẫn soạn văn Em bé thông minh – Chương trình Ngữ văn lớp 6

1. Thể loại

Truyện “Em bé thông minh” thuộc thể loại truyện cổ tích, được dân gian sáng tác và còn lưu truyền cho tới ngày nay. Các nhân vật xuất hiện trong truyện cổ tích thường là những người có số phận bất hạnh, người có tài năng kì lạ, có trí thông minh siêu phàm hoặc là những con vật biết nói, có tính cách giống con người …

Truyện cổ tích khác biệt với các loại truyện khác ở phương diện người kể chuyện kể lại nó và người nghe thì tiếp nhận dựa theo trí tưởng tượng của mình. Bên cạnh yếu tố hư cấu, tưởng tượng thì truyện cổ tích vẫn có sự liên hệ với đời sống hiện thực thông qua đặc điểm về nội dung, ngôn ngữ, tính chất của cốt truyện…

Về nội dung tư tưởng, truyện cổ tích thường mang tinh thần lạc quan, có hậu, kết thúc thì cái thiện luôn thắng cái ác.

Ngày xưa, có một vị vua muốn tìm người tài giúp ích cho đất nước. Ông đã sai cận thần đi dò la khắp nơi mà một thời gian vẫn chưa tìm được người xuất chúng.

Một ngày nọ, vị cận thần đi qua cánh đồng làng gặp hai cha con đang làm ruộng, ông hỏi: “Trâu của ông một ngày cày được mấy đường”. Cậu con trai nhanh nhảu hỏi vặn lại quan là “ngựa của ngài một ngày đi được mấy bước” khiến quan sửng sốt. Biết là đã tìm ra người tài nên quan về bẩm báo vua. Vua vẫn muốn thử tài cậu bé, bắt làng đó phải nuôi trâu đực để đẻ ra trâu con. Cậu bé cùng cha vào cung, tâu với vua là muốn cha đẻ em bé cho để có người chơi cùng. Bằng cách này, nhà vua đã tự thừa nhận sự vô lí trong yêu cầu của mình, hai cha con được thưởng hậu hĩnh.

Nước láng giềng muốn thử xem nước ta có người tài hay không đã cho sứ giả mang sang một chiếc vỏ ốc vặn thật dài và yêu cầu ta phải luồn sợi chỉ qua vỏ ốc. Nhà vua cho người tìm đến cậu bé và cậu bé đã bày cách giúp nước ta thoát nạn. Nhà vua phong cậu làm Trạng Nguyên, ở dinh thự trong cung để giúp vua trị quốc.

Câu 1

Trong truyện cổ tích, việc sử dụng các câu đố để thử tài nhân vật khá là phổ biến. Việc sử dụng câu đố để thử tài nhân vật có các tác dụng như sau:

– Tạo ra các tình huống gây thú vị, bất ngờ cho người đọc.

– Liên kết và phát triển cốt truyện theo một mạch thống nhất.

– Các tình huống có tác dụng thể hiện được trí thông minh, lanh lợi của nhân vật.

Câu 2. Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua 4 lần:

– Lần thứ hai: Cậu bé đã thay mặt dân làng vào cung và bắt vua phải thừa nhận sự phi lí trong lệnh của mình (Cha của em bé là giống đực không thể đẻ được cũng giống như việc nhà vua bắt nuôi trâu đực để đẻ là vô lí).

– Lần thứ ba: Cậu bé đã đố lại nhà vua (Nhờ rèn cây kim thành dao để xẻ thịt chim).

– Lần tứ tư: Lần này, việc giải đố không phải là nhà vua ra đề mà là sứ giả nước láng giềng ra đề. Cậu bé đã dùng kinh nghiệm dân gian để giúp nhà vua giải được câu đố.

Câu 3: Trong mỗi lần được thử thách, em bé đã giải đố các câu hỏi của nhà vua một cách thông minh và linh hoạt

– Lần hai: Cậu bé tự tạo dựng ra một tình huống bất ngờ, làm cho nhà vua phải thừa nhận sự phi lí của mình.

– Lần thứ ba: Cậu bé đố lại nhà vua làm nhà vua khâm phục.

– Lần thứ tư: Cậu bé sử dụng kinh nghiệm trong dân gian để giải đố.

Những cách xử lí tình huống của em bé vô cùng thông minh, hóm hỉnh khiến nhà vua phải tâm phục, khẩu phục.

Câu 4. Truyện em bé thông minh có ý nghĩa to lớn, đề cao phẩm chất trí tuệ của con người:

– Truyện ca ngợi sự thông minh, đề cao phẩm chất trí tuệ của con người.

– Trí thông minh của con người không phải chỉ có ở những người vương tôn quý tộc mà ngay cả những người nông dân bình dị cũng có trí thông minh xuất chúng. Trí thông minh ấy bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, từ kinh nghiệm sống của con người.

Theo chúng tôi

✅ Em Bé Thông Minh

Đề bài: Phân tích nhân vật Em bé thông minh trong truyện cổ tích cùng tên

Bài làm

Em bé thông minh là truyện cổ tích đặc sắc của dân tộc ta. Truyện không lấy những yếu tố tưởng tượng, hư cấu để tạo sức hút mà đưa ra các thử thách để nhân vật vượt qua là nhân tố tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyện. Nhân vật em bé đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi trí thông minh, lanh lợi, nhanh trí, em cũng chính là đại diện cho trí khôn dân gian.

Lần thứ hai, người trực tiếp đưa ra thử thách là vua. Ngài đưa cho em bé thông minh ba thúng gạo nếp, ba con trâu đực và lệnh phải nuôi ba con trâu ấy thành chín con. Liệu thử thách này em bé thông minh có thể vượt qua được hay không? Trong khi cả làng ai nấy đều lo lắng, sợ hãi thì em bé thông minh vẫn vui vẻ, thản nhiên bảo mọi người mổ trâu ra khao cả làng. Cả làng sợ lắm, bắt hai cha con làm giấy cam đoan mới dám ngả trâu ra mổ. Ngay khi nhận được phần thưởng, em bé đã hiểu rằng đây là thử thách tiếp theo mà mình vượt qua, trái với tâm lí hoang mang, sợ sệt của mọi người em lại rất bình tĩnh, thoải mái, tìm ra cách giải quyết. Khi đến gặp nhà vua em bé lại đặt cho nhà vua một tình thế ngược lại, mong cha sinh cho mình em bé. Nhà vua bật cười và thừa nhận sự thông minh của em. Em đã chỉ ra cho nhà vua thấy những điểm bất hợp lý giữa hai sự việc có nét tương đồng, câu trả lời của em cũng thật khéo léo, chỉ bằng việc đặt tình huống ngược lại đã khiến nhà vua phải công nhận tài năng của bản thân.

Để chắc chắn rằng em bé là một người thông minh, nhà vua còn tiếp tục đưa ra thử thách cuối cùng. Thử thách ngày một tăng dần về mức độ, liệu lần này em bé thông minh có thể vượt qua? Nhà vua ban cho em chim sẻ và yêu cầu em làm thành ba mâm cỗ. Cũng như những lần trước, em đặt yêu cầu ngược lại cho nhà vua, xin vua rèn cho ba con dao để làm thịt chim. Quả là tài trí, hiếm ai có sự phản ứng nhạy bén như em. Và qua lần thử thách này nhà vua đã phải tâm phục, khẩu phục tài năng của em bé thông minh.

Nhưng thử thách lớn nhất với em chính là câu đố của xứ thần nước bên. Khi tất cả mọi người không thể nghĩ ra cách giải câu đố, nhà vua nhờ đến sự giúp đỡ của em. Em bé nghe xong liền đáp bằng một câu hát:

Tang tình tang! Tang tình tang

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng

Bên thời lấy giấy mà bưng

Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang

Tang tình tang…

Chỉ bằng câu hát hết sức ngắn gọn em bé đã giải quyết được câu đố mà tất cả quần thần trong triều đều đau đầu không giải được. Em bé đã giải đố bằng kinh nghiệm thực tiễn, trí khôn dân gian.

Em bé thông minh là đại diện cho trí khôn dân gian. Một em bé nông thôn nhưng lại được nhà vua trọng dụng, phong làm trạng nguyên, xây nơi ở cạnh hoàng cung để tiện bề hỏi chuyện. Điều đó cho thấy ở đây không có sự phân biệt cao sang, thấp hèn mà chỉ có thước đo duy nhất là sự thông minh, tài trí. Em bé giải đố không phải vận dụng từ sách vở mà bằng chính kinh nghiệm thực tiễn của bản thân và kinh nghiệm của ông cha ta truyền lại. Qua đó càng đề cao hơn nữa trí khôn dân gian.

Tác phẩm tạo được tình huống truyện độc đáo, sắp xếp trình tự các thử thách hợp lý (từ đơn giản đến phức tạp) và cách em vượt qua thử thách cũng ngày càng hấp dẫn, thú vị hơn lần trước. Nghệ thuật so sánh (lần đầu so sánh em với bố, lần hai với dân làng, lần ba với vua, lần cuối với sứ thần nước láng giềng) càng làm nổi bật hơn trí khôn hơn người của em bé thông minh.

Với những nét nghệ thuật đặc sắc, hấp dẫn truyện đã đề cao trí thông minh của dân gian qua hình thức giải những câu đố oái oăm, hóc búa, từ đó tạo nên tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên trong đời sống hàng ngày.

Đề bài: Em hãy kể tóm tắt truyện Em bé thông minh

Vua nước láng giềng muốn kéo quân sang xâm lược nhưng trước hết muốn thử xem nước ta có người tài hay không bèn cho sứ giả mang sang một chiếc vỏ ốc vặn thật dài và đố xâu sợi chỉ qua. Tất cả triều đình không ai giải được lại tìm đến cậu bé. Với trí thông minh khác người, lại sống gần gũi với thực tế, cậu bé vừa chơi vừa giải đố, kết quả là tránh được cho đất nước một cuộc chiến tranh. Nhà vua thấy thế bèn xây dinh thự ngay cạnh hoàng cung để cậu ở cho tiện việc hỏi han đồng thời phong cho cậu làm Trạng nguyên.

Đề bài: Kể diễn cảm truyện Em bé thông minh

Ông ta xuống ngựa rồi cao giọng hỏi:

– Này lão kia! Trâu của lão một ngày cày được mấy đường?

Bị bất ngờ, người cha ngạc nhiên đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con trai khoảng bảy, tám tuổi, tóc để trái đào, cởi trần đóng khố, đã nhanh nhảu hỏi vặn lại quan rằng:

– Thế xin hỏi ông câu này đã: Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi một ngày cày được mấy đường.

Nhận được quà và lệnh vua ban, cả làng bối rối và lo lắng, không hiểu thế nào. Các cụ bô lão trong làng mở đến mấy cuộc họp ngoài đình, bàn đi tính lại vẫn chẳng tìm ra cách giải quyết. Việc ấy đến tai chú bé, chú liền nói với cha rằng:

– Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp thành xôi để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo, cha con ta sẽ xin làng làm phí tổn để trẩy kinh, lo liệu việc đó.

Nghe con nói, người cha sợ hãi khuyên can:

– Đã giết trâu ăn thịt thì còn lo liệu thế nào? Đừng có dại dột mà bay mất đầu đấy con ạ!

Nhưng chú bé vẫn khăng khăng một mực:

– Cha cứ mặc con, thế nào con cũng lo xong xuôi mọi việc!

Khoác vội chiếc áo, người cha lật đật ra đình trình bày câu chuyện với các cụ trong làng. Mọi người ngờ vực, bắt hai cha con phải làm giấy cam đoan rồi mới dám ngả trâu đánh chén.

Mấy ngày sau, hai cha con khăn gói vào kinh. Đến hoàng cung, chú bé bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì rình lúc lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng, khóc ầm lên.

Lấy làm lạ, vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:

– Thằng bé kia, mày vào đây có việc gì? Tại sao lại khóc?

Chú bé dụi mắt, vờ vĩnh đáp:

– Tâu đức vua! Mẹ con không may chết sớm, mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

Nghe chú bé nói, nhà vua và cả triều đình đều bật cười. Vua phán:

– Này thằng bé kia! Mày muốn có em bé thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực thì làm sao đẻ được?

Chỉ chờ có thế, cậu bé bỗng tươi tỉnh hẳn:

– Thế sao lệnh trên lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực, sau một năm phải đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ?

Nhà vua mỉm cười, xoa đầu chú bé:

– Ta thử đấy mà! Thế dân làng mày không biết đem trâu ra thịt mà ăn với nhau à?

Chú bé nhanh nhảu đáp:

– Tâu đức vua! Làng con sau khi nhận được ba thúng nếp và ba con trâu, biết là đức vua thương ban lộc cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau cả rồi ạ!

Vua và các quan nhìn nhau, chịu là chú bé thông minh. Tuy nhiên, vua muốn thử một lần nữa.

Hôm sau, hai cha con chú bé đang ăn cơm ở ngoài công quán thì sứ giả của nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải nấu thành ba mâm cỗ. Chú bé bảo cha cho mượn cây kim may nhỏ xíu rồi nói với sứ giả:

– Ông cầm cái kim này về tâu với đức vua cho người rèn thành một con dao thật sắc để tôi xẻ thịt chim.

Nghe sứ giả kể lại, nhà vua phục lắm. Lập tức, vua cho gọi hai cha con chú bé vào cung và ban thưởng rất hậu.

Hồi đó, nước láng giềng cậy lớn lăm le muốn cướp nước ta. Để dò xem nước ta có người tài hay không, sứ giả nước ấy mang sang một chiếc vỏ ốc vặn rất dài và rỗng hai đầu, đố làm sao xâu được sợi chỉ qua đường ruột ốc.

Nhà vua lập tức triệu các đại thần vào cung để hỏi ý kiến. Mỗi người bàn một cách. Các ông trạng, các nhà thông thái nghĩ nát óc nhưng cũng đành bó tay. Mà không giải được câu đố hiểm hóc ấy thì mất thể diện quốc gia. Cuối cùng, nhà vua đành mời sứ thần ra nghỉ ở công quán để có thời gian đi hỏi chú bé.

Tang tình tang! Tính tình tang Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang ...

– Cứ làm theo cách ấy là xâu qua được ngay!

Sau đó, nhà vua phong tặng chú bé chức Trạng nguyên, lại truyền xây cho chú một dinh thự nguy nga trong cung để khi có việc cần, vua gặp gỡ hỏi ý kiến chú cho tiện. Với trí thông minh lạ thường, chú bé đã giúp nhà vua rất nhiều việc có ích cho đất nước.

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Em bé thông minh.

Bài làm

Từ thuở xưa, nhân dân ta đã coi trọng trí tuệ, bởi trí tuệ giúp con người vượt qua được khó khăn, thử thách trong cuộc sống hàng ngày. Bằng trí tưởng tượng, họ đã sáng tạo ra những nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp của trí tuệ. Truyện Em bé thông minh đề cao trí khôn dân gian (qua hình thức giải những câu đố, vượt những thử thách oái oăm …), từ đó tạo ra tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên nhưng không kém phần thâm thúy. Trong truyện, trí thông minh của em bé được thử thách cả thảy bốn lần.

Lần thứ hai, em hóa giải cái lệnh ngược đời của vua về chuyện ban cho dân làng ba con trâu đực, bắt nuôi sao cho chúng đẻ thành chín con trong một năm …

Lần thứ ba, em vượt qua thử thách cực kì khó khăn: từ thịt một con chim sẻ, phải nấu thành ba mâm cỗ theo yêu cầu của nhà vua.

Lần thứ tư là làm được công việc oái oăm mà sứ thần nước ngoài thách đố: xâu một sợi chỉ mảnh qua đường ruột của một chiếc vỏ ốc vặn.

Thử thách càng ngày càng khó nhưng chú bé đều vượt qua một cách dễ dàng. Điều đó chứng tỏ trí thông minh tuyệt vời của chú.

Cái lệnh kì quặc xưa nay chưa từng thấy của nhà vua làm cho dân làng lo lắng, sợ hãi, họp bàn liên tục mà không tìm ra cách giải quyết. Giải quyết sao được bởi xưa nay trâu đực có đẻ con bao giờ? Nhưng dẫu phi lí đến đâu đi chăng nữa thì đó cũng là lệnh vua. Không thực hiện đúng lệnh là mắc tội khi quân, ắt cả làng phải chịu tội chết. Đoạn kể về thái độ của dân làng khi nhận được lệnh vua thật cụ thể, sinh động, làm nổi bật không khí lo sợ đến kinh hoàng: Từ trên xuống dưới, mọi người đều tin là một tai họa.

Chuyện đến tai chú bé, chú thản nhiên bảo cha: – Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với dân làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh lo liệu việc đó.

Sự tính toán đâu ra đấy và thái độ bình tĩnh, tự tin ấy quả là khác thường, kì lạ đối với cái tuổi lên bảy, lên tám của chú bé. Nghe con nói, người cha sợ hãi khuyên can, chú bé vẫn khăng khăng quả quyết: ” Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc “.

Lần thứ hai này, chú bé vượt qua thử thách bằng cách khéo léo gài bẫy để nhà vua phải công nhận sự vô lí trong lệnh của mình.

Nghĩ sao làm vậy, chú cùng cha lên kinh đô, tìm cách đến tận trước ngai vàng và ra mắt vua với điệu bộ, lời lẽ cố tính gây chú ý đối với mọi người: lẻn vào sân rồng, khóc um lên. Thấy chuyện lạ, vua sai lính điệu vào, phán hỏi: – Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc. Chú bé chỉ chờ có thế để thực hiện mưu kế của mình: – Tâu đức vua! Mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn có bè, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

Lời nói ngộ nghĩnh của chú bé khiến nhà vua và quần thần đều bật cười về sự vô lí của nó. Vua phán: – Cha mày là giống đực làm sao mà đẻ được!. Vậy là chú bé đã lừa nhà vua vào tròng một cách nhẹ nhàng, êm ái: – Thế sao làng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!.

Hiểu ý chú bé, đức vua bật cười bảo: – Ta thử đấy mà!… Chú bé đã tương kế tựu kế, dùng thuật gậy ông lại đập lưng ông để giành phần chủ động về mình, mạnh dạn lấy cái phi lí trong lời lẽ của mình để buộc đức vua phải tự công nhận sự phi lí trong lệnh của đức vua. Trí thông minh nhanh nhạy, tài ứng đối trôi chảy, lí lẽ sắc sảo của chú bé làm cho đức vua và triều thần đều chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc.

Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn khi chú bé lần lượt vượt qua hết thử thách này đến thử thách khác. Tuy đã tận mắt chứng kiến khả năng ứng xử thông minh của chú bé nhưng đức vua vẫn muốn thử một lần nữa. Những lần trước, trí thông minh của chú bé thể hiện qua lời nói; đức vua muốn xem trí thông minh ấy thể hiện ra sao qua hành động.

Đức vua sai sứ giả mang tới cho chú bé một con chim sẻ và truyền lệnh cho chú bé phải làm thịt chim, dọn thành ba mâm cỗ. Không chút bối rối, chú bé bảo cha lấy cho mình một cây kim may rồi đưa cho sứ giả và bảo: – Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim. Phản ứng của chú bé thật nhanh nhạy và cách xử trí cũng thật là đáng phục. Chú bé đã đẩy trả thế bí cho đối phương bằng cách đánh đố lại với ngầm ý: Nếu nhà vua rèn được cây kim này thành con dao thì tôi cũng sẽ làm được ba mâm cỗ từ thịt con chim sẻ. Tất nhiên, yêu cầu của chú đối với vua là không thể thực hiện được, do vậy sẽ không có chuyện ngược lại. Trí thông minh của chú bé thật tuyệt vời!

Để câu chuyện tăng tính hiện thực và mức độ thuyết phục, người xưa đã đưa vào chi tiết: Hồi đó có một nước láng giềng lăm le muốn xâm chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc. Kiểu thử tài này thường hay thấy trong truyện dân gian về các nhân vật thông minh, tài giỏi như Trạng Quỳnh, Mạc Đĩnh Chi, Trạng Hiền …

Sự thách đố oái oăm ấy làm cho các vị đại thần vò đầu suy nghĩ mà không sao tìm ra cách. Nhà vua đành phải nhờ đến trí thông minh của chú bé. Nghe qua, chẳng cần suy nghĩ lâu la gì, chú bé liền hát: – Tang tình tang! Tính tình tang. Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng. Bên thời lấy giấy mà bưng. Bên thời bôi mờ, kiến mừng kiến sang. Tang tình tang … Câu hát hồn nhiên, nhí nhảnh nhưng lại chứa đựng một giải pháp cực kì sáng suốt, tuy đơn giản, dễ dàng như một trò chơi con trẻ. Dân gian chẳng có câu: Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ đó sao? Kiến ngửi thấy mùi mỡ ắt tìm mọi cách lần sang bằng được, do vậy sợi chỉ sẽ được kéo sang theo. Đơn giản thế mà đức vua và các nhà thông thái không sao nghĩ ra. Giải pháp đó chính là trí tuệ, là kinh nghiệm của dân gian được đúc kết từ cuộc sống.

Truyện đề cao trí thông minh của người lao động. Trí thông minh của chú bé không thể hiện qua chữ nghĩa, văn chương, thi cử mà qua thực tế cuộc sống hàng ngày. Cuộc đấu trí của chú bé xoay quanh những chuyện bình thường như đường cày, bước chân ngựa, con trâu, con chim sẻ, con ốc, con kiến vàng. Chú bé tiêu biểu cho trí tuệ dân gian được đúc kết từ đời sống và luôn luôn được vận dụng trong thực tế.

Truyện còn mang ý nghĩa hài hước thâm thúy. Cách giải các câu đố của chú bé đều thông minh, hóm hỉnh, tạo ra những tình huống bất ngờ thú vị, đem lại tiếng cười vui vẻ.

Trong truyện, từ dân làng cho đến các ông trạng, các nhà thông thái và vua quan đều thua tài em bé. Nhân vật em bé thông minh khiến cho mọi người yêu thích bởi tính chất hồn nhiên, ngây thơ mà sắc sảo tuyệt vời.

Chú bé thông minh được vua phong cho chức Trạng nguyên. Trí tưởng tượng và khao khát đổi đời của người xưa được thỏa mãn. Qua truyện này, nhân dân ta muốn khẳng định sức mạnh của trí tuệ, đồng thời thể hiện tình cảm mến yêu, thán phục đối với những người hiền tài đã làm rạng danh cho gia đình, đất nước.

2 Bài Văn Kể Lại Truyện Em Bé Thông Minh Bằng Lời Văn Của Em, Hay, Đặc

Đề bài: Kể lại truyện Em Bé Thông Minh bằng lời văn của em

Kể lại truyện Em Bé Thông Minh bằng lời văn của em

1. Kể lại truyện Em Bé Thông Minh bằng lời văn của em, mẫu số 1 (Chuẩn):

Để thử tài cậu bé thông minh, nhà vua đã ban cho ngôi làng của cậu bé 3 thúng gạo nếp và 3 con trâu đực và yêu cầu 1 năm sau phải để cho 3 con trâu đực đẻ thành 9 con. Nhận được lệnh vua, ai nấy trong làng đều lo lắng, sợ hãi nhưng cậu bé lại nói mọi người lấy gạo, giết trâu ăn, còn một phần để cậu bé và cha làm lộ phí vào cung gặp vua. Gặp vua cậu bé đã nhanh trí chứng minh với nhà vua rằng 3 con trâu không thể đẻ.

Thấy được sự nhanh trí của cậu bé, nhà vua đưa thêm một thử thách khi ra lệnh cho cậu bé xẻ thịt một con chim sẻ để làm thành 3 mâm cỗ. Cậu bé đã không hề lo lắng mà yêu cầu nhà vua rèn cho mình cây kim thành con dao để mình xẻ thịt. Qua thử thách lần này nhà vua đã hoàn toàn tin tưởng vào tài trí của cậu bé.

Bấy giờ nước ta có giặc ngoại xâm nhăm nhe xâm lược, để thăm dò nước ta, chúng đã cho người sang thăm dò. Sứ giả của quân giặc đã đưa ra một câu hỏi hóc búa: làm sao để xâu được chỉ qua chiếc vỏ ốc. Cậu bé thông minh đã nhanh trí buộc sợi chỉ vào người con kiến càng, thoa mỡ bên kia vỏ ốc để kiến bò sang. Hoàn thành thử thách, cậu bé không chỉ khiến sứ giả quân địch tâm phục khẩu phục mà còn được nhà vua phong làm trạng nguyên.

2. Kể lại truyện Em Bé Thông Minh bằng lời văn của em, mẫu số 2 (Chuẩn):

Con người thông minh thì làm việc gì cũng dễ dàng vì họ nghĩ ra các phương pháp tốt và hiệu quả nhất để giải quyết những đề đó. Người thông minh nếu có nhân cách và đạo đức tốt thì sẽ trở thành những nhân tố giúp đất nước phát triển. Dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu chuyện nói về người thông minh nhưng câu chuyện mà tôi ấn tượng nhất là câu chuyện “Em bé thông minh” sau đây tôi xin kể lại câu chuyện.

Ngày hôm sau, hai cha con bắt đầu lên đường để vào kinh, khi đã đến cổng vua, cậu bé bảo cha đứng ngoài đợi còn mình thì lẻn vào sân vua để khóc. Nghe thấy tiếng trẻ con khóc nhà vua liền sai lính ra đưa cậu bé vào hỏi “Thằng bé kia, có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc ầm ĩ, làm kinh động đến ta?” Nghe thấy vua hỏi cậu bé liền nói: “Thưa đức vua, sự tình là như vậy, mẹ con mất từ sớm mà cha thì mãi không chịu đẻ thêm em bé để cùng chơi đùa với con. Dám mong nhà vua hạ lệnh để cha con đẻ em cho con chơi”. Vua nghe xong liền bật cười và nói: ” Ngươi muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha chứ cha ngươi là đàn ông thì sao mà đẻ được” cậu bé nghe thấy thế liền đáp lại “Thế sao làng của con lại bị lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!”

Trước cách ứng xử nhạy bén của cậu bé cả vua và chiều thần đều trầm trồ khen ngợi. Nhà vua chưa dừng ở đó ông vẫn muốn thử cậu bé thêm lần nữa. Hôm sau khi hai cha con đang ngồi ăn cơm thì sứ giả đến ông ta mang theo một con chim sẻ và bảo cậu làm ra ba mâm cỗ đầy. Em bé ngồi nghĩ một lúc và cậu đưa cho sứ giả một cây kim và bảo mang cây kim này đi rèn thành một con dao để sẻ chim.

Sứ giả về tâu với nhà vua và vua rất vui mừng vì đã tìm ra nhân tài liền ban thưởng cho hai cha con họ.

Nước láng giềng đang lăm le xâm lược nước ta nhưng chúng vẫn chưa hành động vì sợ nước ta có nhân tài nên chúng đã gửi sứ giả sang để thám thính. Sứ thần mang lên một vỏ ốc dài và một sợi dây đố dùng sợi dây xuyên qua ruột ốc. Câu hỏi của nước bạn của thật rất khó, các bá quan trong triều thử hết mọi cách nhưng không làm được. Không tìm được cách nhà vua liền sai sứ giả trở về quê cậu bé xem tìm được cách nào không đến nơi sứ giả trình bày câu chuyện cho cậu bé nghe và cậu bé bật cười và hát :

Tang tình tang, tình tính tangBắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưngBên thời lấy giấy mà bưngBên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sangTang, tình tang…

Và em bé bảo cứ làm theo cách đấy là được. Viên sứ giả vội về tâu với nhà vua cả triều đình vui sướng sứ giả nước láng giềng thán phục. Nhà vua đã phong cho em bé là trạng nguyên đưa vào cung để tiện hỏi han.

Nước ta từ xưa đến nay có rất nhiều người tài giỏi họ thông minh bẩm sinh nhưng cũng nhờ chăm chỉ học hỏi. Là thế hệ trẻ của tổ quốc chúng ta cần chăm chỉ học tập rèn luyện cố gắng trở thành người có ích cho đất nước.

https://thuthuat.taimienphi.vn/ke-lai-truyen-em-be-thong-minh-bang-loi-van-cua-em-51878n.aspx