Top 14 # Xem Nhiều Nhất Tại Sao Phải Giải Phóng Miền Nam Trước Mùa Mưa Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Asianhubjobs.com

Tại Sao Giải Phóng Hoàn Toàn Miền Bắc Tạo Cơ Sở Để Giải Phóng Hoàn Toàn Miền Nam Thống Nhất Đất Nước(Kháng Chiến Chóng Thực Dân Pháp 1945

1. Âm mưu mới của Pháp – Mỹ ở Đông Dương. Kế hoạch Nava

– Sau 8 năm xâm lược VN, Pháp thiệt hại ngày càng lớn, bị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân, tốn hơn 2.000 tỉ phrăng, vùng chiếm đóng bị thu hẹp, ngày càng lâm vào thế phòng ngự, bị động.

– Trước sự sa lầy của Pháp,Mỹ can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài, mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thế Pháp.

– Ngày 07/05/1953 ,với sự thỏa thuận của Mỹ, Pháp cử Na-va làm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương, đề ra kế hoạch trong 18 tháng sẽ giành thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.

– thu – đông 1953 và xuân 1954 giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, tiến công chiến lược để bình định miền Trung và Nam, giành nhân lực, vật lực, thanh toán Liên khu V, đồng thời mở rộng ngụy quân, xây dựng đội quân cơ động mạnh.

– từ thu – đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quyết định, buộc ta đàm phán theo điều kiện có lợi cho Pháp và “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.

– Nava tập trung ở đồng bằng Bắc bộ 44 tiểu đoàn cơ động (trong tổng số 84 tiểu đoàn ở Đông Dương), tiến hành càn quét, mở cuộc tiến công lớn vào Ninh Bình, Thanh Hóa., để phá kế hoạch tiến công của ta.

II. CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG – XUÂN 1953 – 1954 VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954 1. Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 a. Chủ trương, kế hoạch quân sự Đông – Xuân 1953 – 1954 của ta

Cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn kế hoạch quân sự trong Đông Xuân 1953 – 1954.

+ Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những Phương hướng chiến lược: hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc chúng phải phân tán lực lượng, tạo điều kiện thuận lợi để ta tiêu diệt địch.

b. Diễn biến: Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 của ta đã bước đầu làm phá sản kế hoạch Nava

– Phối hợp với mặt trận chính, ở vùng sau lưng địch, phong trào du kích phát triển mạnh ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình – Trị – Thiên, đồng bằng Bắc Bộ…

c. Ýnghĩa

– Kế hoạch Nava bước đầu phá sản, Pháp bị phân tán làm 5 nơi.

– Chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho ta mở cuộc tiến công quyết định vào Điện Biên Phủ.

2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 a. Âm mưu của Pháp, Mỹ

Điện Biên Phủ là thung lũng rộng lớn ở phía tây rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào

– Điện Biên Phủ có vị trí chiến lược then chốt ở Đông Dương và Đông Nam Á nên Pháp cố nắm giữ.

– Nava xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, gồm 16.200 quân, đủ loại binh chủng, được bố trí thành ba phân khu với 49 cứ điểm.

+ Phân khu Trung tâm Mường Thanh, nơi đặt cơ quan chỉ huy, tập trung 2/3 lực lượng, có sân bay và hệ thống pháo binh.

– Pháp và Mỹ coi Điện Biên Phủ là “một pháo đài bất khả xâm phạm”, trung tâm của kế hoạch Nava.

b. Chủ trương của ta

– Tháng 12/1953, Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng Tây Bắc, tạo điều kiện cho Lào giải phóng Bắc Lào.

– Ta huy động một lực lượng lớn chuẩn bị cho chiến dịch, khoảng 55.000 quân, hàng chục ngàn tấn vũ khí, đạn dược; lương thực, cùng nhiều ô tô vận tải, thuyền bè… chuyển ra mặt trận.

– Đầu tháng 3/1954 công tác chuẩn bị hoàn tất, ngày 13/3/1954 ta nổ súng tấn công.

c. Diễn biến

Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra qua 3 đợt

từ ngày 13/03 đến 17/03/1954: Ta tiến công tiêu diệt các căn cứ Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc, loại khỏi vòng chiến 2.000 địch.

– Ta đồng loạt tiến công phía đông khu Trung tâm Mường Thanh như E1, D1, C1, C2, A1 …,chiếm phần lớn các căn cứ của địch, tạo điều kiện bao vây, chia cắt, khống chế địch.

– Mỹ khẩn cấp viện trợ cho Pháp và đe dọa ném bom nguyên tử ở Điện Biên Phủ.

– Ta khắc phục khó khăn về tiếp tế, quyết tâm giành thắng lợi.

Đợt 3, từ ngày 01/05 đến 07/05/1954:

– Ta tiến công khu Trung tâm Mường Thanh và phân khu Nam, tiêu diệt các căn cứ còn lại của địch.

– 17 giờ 30 ngày 07/05/1954, Tướng Đơ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ Ban tham mưu địch đầu hàng và bị bắt sống.

– Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao, kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi.

Trong cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 và Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ:

– Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128.000 địch, 162 máy bay, thu nhiều vũ khí,

– Giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Riêng tại Điện Biên Phủ, ta loại khỏi vòng chiến 16 200 địch, bắn rơi 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.

e. Ý nghĩa

– Thắng lợi cùa cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 và Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Na-va.

– Giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương.

– Tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi.

Kỷ Niệm 44 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam: Đại Thắng Mùa Xuân 1975

Nhân dịp kỉ niệm 44 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2019), Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) xin trân trọng giới thiệu bài viết “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo, sáng tạo” của Đại tá Trần Tiến Hoạt-nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

Chỉ đạo chiến lược kiên quyết, sắc bén, linh hoạt

Do chịu thất bại nặng nề trên chiến trường và phong trào phải đối chiến tranh dâng cao cả trong và ngoài nước, tháng 1/1973, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút quân về nước. Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, Mỹ tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự chỉ đạo chính quyền, quân đội Sài Gòn phá hoại Hiệp định vừa ký kết, mở hàng ngàn cuộc hành quân “bình định, lấn chiếm”, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam. Chính phủ Mỹ còn thi hành chính sách ngoại giao xảo quyệt, thỏa thuận với các nước lớn xã hội chủ nghĩa cắt giảm viện trợ, gây áp lực hạn chế thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước âm mưu và hành động chiến tranh mới của địch, cách mạng miền Nam gặp những khó khăn, tổn thất nhất định. Nhiều địa phương tỏ ra lúng túng, nhấn mạnh đến hòa bình, hòa hợp, buông lỏng tư tưởng chiến lược tiến công nên trên một số địa bàn bị mất đất, mất dân. Chỉ tính riêng trong năm 1973, địch đóng thêm 500 đồn bốt, chiếm thêm 70 xã và gần 1.000 ấp, kiểm soát thêm 65 vạn dân…

Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường, nồng nhiệt chào đón Quân giải phóng tiến vào thành phố. Ảnh: Hứa Kiểm -TTXVN

Nắm bắt tình hình trên, tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 nhấn mạnh: Bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng cũng là sử dụng bạo lực cách mạng, do đó phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao để giành toàn thắng. Thực hiện nghị quyết của Đảng đề ra, quân dân ta trên chiến trường đã kiên quyết mở những cuộc phản công, tiến công trực tiếp giáng trả mọi hành động chiến tranh, tiêu hao, tiêu diệt một phần sinh lực địch, đánh bại cơ bản kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng, bảo vệ, mở rộng vùng giải phóng, tạo ra thế và lực mới cho kháng chiến. Đặc biệt, ta giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Đường 14 – Phước Long (từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/1/1975) loại khỏi vòng chiến đấu trên 4.000 địch, giải phóng toàn tỉnh Phước Long (Đông Nam Bộ) với trên 50.000 dân. Chiến thắng này cho thấy khả năng chiến đấu của quân chủ lực ta đã hơn hẳn quân chủ lực của địch, đồng thời cho thấy khả năng phản ứng rất hạn chế của Mỹ, tạo thêm cơ sở cho cơ quan chỉ đạo chiến lược cách mạng hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Cuối năm 1974, đầu năm 1975, so sánh lực lượng ở miền Nam có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng, trên cơ sở đó, Hội nghị Bộ Chính trị (từ 30/9 đến 7/10/1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ 18/12/1974 đến 8/1/1975) đã ra nghị quyết lịch sử, hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước trong thời gian 2 năm (1975 – 1976). Theo kế hoạch đề ra, trong năm 1975, cách mạng sẽ tranh thủ thời cơ bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo tiền đề để trong năm 1976 tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa giành toàn thắng. Tuy đề ra kế hoạch 2 năm, nhưng Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: Nếu thời cơ đến sớm thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Về phương hướng, yêu cầu đặt ra, Bộ Chính trị nhấn mạnh: cần tranh thủ thời cơ thực hiện tổng công kích-tổng khởi nghĩa, phải đánh thắng nhanh để giảm thiệt hại về người và của cho nhân dân, đồng thời giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.

Đây thực sự là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh, thể hiện tầm cao trí tuệ, tư tưởng và truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam, điều đó vượt lên trên mọi toan tính của các nhà hoạch định chính sách phía Mỹ, đồng thời đập tan những luận điệu xuyên tạc về “các cuộc tắm máu” mà các thế lực thù địch, phản động ở trong và ngoài nước rêu rao. Trên thực tế khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, nắm bắt kịp thời những diễn biến của chiến trường, Bộ Chính trị không ngừng bổ sung quyết tâm chiến lược, quyết định rút ngắn thời gian: giải phóng hoàn miền Nam ngay trong năm 1975 (cuộc họp ngày 18/3/1975), giải phóng hoàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975 (cuộc họp ngày 25/3/1975), giải phóng hoàn miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là ngay trong tháng 4 năm 1975 (cuộc họp ngày 1/4/1975).

Thực hành tổng tiến công và nổi dậy toàn diện, triệt để, nhanh gọn

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 4/3/1975 và kết thúc vào ngày 30/4/1975, trong đó tiến công quân sự đóng vai trò quyết định với ba chiến dịch chiến lược liên tục về thời gian và liên kết về không gian đi đến đánh sập quân đội Sài Gòn. Mỗi chiến dịch chiến lược lại có cách thức tổ chức thực hiện độc đáo, sáng tạo khác nhau.

Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3 đến ngày 3/4/1975) là đòn giáng mở đầu Tổng tiến công và nổi dậy nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh nam Tây Nguyên, mở rộng hành lang nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới cho chiến trường. Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên xác định trận tiến công Thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt. Lực lượng cách mạng hoàn toàn áp đảo. Ta sử dụng cách đánh mới: tổ chức các mũi đột kích binh chủng hợp thành kết hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh bí mật triển khai trước đánh thẳng vào trung tâm thị xã, nhanh chóng tiêu diệt cơ quan chỉ huy đầu não địch rồi mới phát triển trở ra bên ngoài thị xã. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, tiếng súng đánh chiếm Buôn Ma Thuột bắt đầu. Đại bộ phận các đơn vị bộ binh cơ giới, xe tăng thọc sâu tại các vị trí chờ đợi từ xa trên các hướng, các trục đường khác nhau theo lệnh vượt qua các tuyến vòng ngoài ào ạt đánh chiếm những mục tiêu chủ yếu trong thị xã. Có những đơn vị phải vượt qua chặng đường dài 30-40 km nhưng vẫn bảo đảm thời gian hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đòn tiến công đã làm cho Mỹ, chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, choáng váng. Mọi sự kháng cự và ứng cứu của địch đều bị đập tan. Đến trưa ngày 11 tháng 3, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã. Việc đánh chiếm giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột trong hơn một ngày đêm là một trong những chiến công vang dội của cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trực tiếp mở ra thắng lợi của toàn chiến dịch Tây Nguyên nói riêng, toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói chung.

Tiếp theo là đòn tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng (26/3 đến 29/3/1975). Sau khi mất Tây Nguyên, chính quyền và quân đội Sài Gòn rơi vào tình trạng hoang mang, rối loạn. Địch tập trung quân về giữ thành phố Huế và khu liên hợp quân sự Đà Nẵng, chờ đợi viện binh từ phía Nam ra phản công. Nhạy bén tranh thủ thời cơ, ta nhanh chóng mở cuộc tiến công trong hành tiến giải phóng Huế (26/3), sau đó phát triển thành chiến dịch tiến công quy mô lớn bằng thế hợp vây của ba cánh quan từ ba hướng Bắc, Tây, Nam đánh vào Đà Nẵng, phá tan thế co cụm, diệt và làm tan rã 10 vạn địch, làm thay đổi hẳn tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường.

Đánh chiếm Dinh Độc Lập. Ảnh: Mai Hưởng – TTXVN

Đến những ngày cuối tháng 4 năm 1975, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng: Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm bằng được: Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc lập, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất. Về mặt lực lượng, quân ta vẫn chiếm ưu thế áp đảo. Nhưng đánh bằng cách nào có hiệu lực nhất, để vừa phát huy hết sức mạnh của tất cả lực lượng, giành thắng lợi nhanh nhất, vừa giảm thiểu được sự tàn phá của chiến tranh (giữ được Sài Gòn hầu như nguyên vẹn) là vấn đề đặt ra cấp thiết. Lúc này, trong nội thành Sài Gòn, địch tổ chức phòng thủ thành 5 liên khu do toàn bộ lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự phụ trách. Ở vòng ngoài, chúng bố trí các sư đoàn chủ lực mạnh muốn ngăn chặn quân ta từ xa 30-50km, đề phòng khi bị tiến công, chúng sẽ từng bước lùi dần và co cụm về Sài Gòn “tử thủ”. Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng cách đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, đó là dùng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, tiêu diệt, làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch ở vòng ngoài; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới hóa mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu đã được lựa chọn trong nội thành. Với cách đánh như vậy, quân ta hoàn toàn tập trung được sức mạnh để đánh vào các mục tiêu chủ yếu đã lựa chọn kết hợp với tiêu diệt địch ở vòng ngoài không cho địch trong ngoài ứng cứu làm giảm bước tiến quân của ta.

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi vẻ vang đã khẳng định cho cách đánh này là hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, cách mạng đã giữ được thành phố Sài Gòn hầu như nguyên vẹn. Đó là một thành công to lớn mà cả thế giới thấy kinh ngạc.

Phối hợp chặt chẽ với các đòn quân sự then chốt là các cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân các địa phương khắp chiến trường (đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long) theo phương thức xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Đến ngày 2/5/1975, miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng.

Như vậy, trong một thời gian ngắn (55 ngày đêm), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng đã diệt và làm tan rã hơn 1 triệu quân chủ lực và khoảng 1,5 triệu quân thuộc lực lượng phòng vệ dân sự của địch, đập tan bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn, giải phóng miền Nam, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời kết thúc vẻ vang cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), mở ra kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam: cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc, khẳng định nét độc đáo, sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh của Đảng Lao động Việt Nam phù hợp với yêu cầu của thời cơ quân sự, thời cơ chính trị và hơn hết khẳng định cho trí tuệ, tài thao lược Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Đề xuất

Giải Phóng Hoàn Toàn Miền Nam

Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, Mỹ buộc phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Song, chúng không từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam, tiếp tục viện trợ, tạo điều kiện cho chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pari. Mỹ ra sức xây dựng quân đội ngụy Sài Gòn thành một đội quân tay sai “mạnh nhất ở Đông – Nam á”, với số quân trên 1 triệu 10 vạn tên, được tổ chức thành 4 quân đoàn gồm 13 sư đoàn và nhiều lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, với 1.850 máy bay các loại, 1.588 khẩu pháo, 2.074 xe tăng, 1.611 tàu chiến; với hàng triệu tấn vật tư chiến tranh được đưa vào miền Nam trước và sau khi ký Hiệp định Pari. Ngoài ra còn có lực lượng bảo an, dân vệ được trang bị đầy đủ. Chúng liên tiếp đưa ra nhiều kế hoạch chiến tranh với mục tiêu trong 3 năm (từ 1973-1975), chiếm hết tất cả các vùng giải phóng và đặt toàn bộ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chúng. Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam Việt Nam đã hình thành hai vùng kiểm soát, hai quân đội, hai chính quyền. Lực lượng vũ trang cách mạng đang đứng vững trên các địa bàn chiến lược quan trọng. Uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Hội nghị cấp cao của gần 80 nước Không liên kết họp tại Angiê, tháng 9-1973 đã công nhận Cộng hoà miền Nam Việt Nam là thành viên chính thức của Phong trào Không liên kết, công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên là thắng lợi của chiến dịch Huế-Đà Nẵng (từ 19 đến 29-3-1975). Từ lúc chiến dịch Tây Nguyên mở đầu, quân và dân Trị-Thiên đã phối hợp hoạt động mạnh, tiến công và nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày 19-3-1975 toàn bộ tỉnh Quảng Trị được giải phóng. Tiếp đó, quân và dân Thừa Thiên-Huế đã hình thành thế bao vây Huế bằng nhiều mũi và khống chế chặn đường rút chạy ra biển và vào Đà Nẵng. Ngày 24-3, Tam Kỳ và Quảng Ngãi được giải phóng. Ngày 26-3-1975, các lực lượng vũ trang nhân dân đã tiến hành hợp vây và cùng với đông đảo lực lượng quần chúng cách mạng nổi dậy tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên-Huế gồm 4 vạn tên địch, làm chủ thành phố Huế và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên. Từ đầu tháng 4-1975, các binh đoàn chủ lực trên đường hành quân tiến về Sài Gòn đã đánh địch, giải phóng Phan Rang, Bình Thuận, Bình Tuy, Xuân Lộc, đánh chiếm Bà Rịa. Ngày 26-4-1975, cuộc tiến công lớn vào Sài Gòn bắt đầu. Những trận chiến đấu quyết liệt và những trận bão lửa dữ dội diễn ra trước hết ở hướng đông là hướng địch tập trung nhiều lực lượng và tổ chức chống cự rất điên cuồng. Từ khắp các hướng, năm cánh quân lớn phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương và được sự giúp sức của quần chúng nổi dậy, nhất loạt tấn công địch với sức mạnh vũ bão. Từ ngày 26 đến ngày 28-4, một bộ phận quan trọng lực lượng địch trên tuyến phòng thủ vòng ngoài bị tiêu diệt. Các binh đoàn chủ lực của quân giải phóng xiết chặt vòng vây xung quanh Sài Gòn. Hoảng sợ trước nguy cơ sắp bị tiêu diệt hoàn toàn, từ ngày 18-4-1975, Tổng thống Mỹ chúng tôi ra lệnh di tản gấp người Mỹ ở Sài Gòn bằng một lực lượng không quân và hải quân Mỹ. Ngụy quyền tay sai, sau khi Trần Văn Hương lên thay Thiệu (21-4) rồi Dương Văn Minh lên thay Hương (28-4) đã thực sự lâm vào cảnh tuyệt vọng. Ngày 30-4, với sự hiệp đồng chiến đấu rất anh dũng của các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, các lực lượng biệt động, tự vệ vùng ven và nội đô, cùng với sự nổi dậy đều khắp và rất kịp thời của quần chúng trong và ngoài thành phố, các cánh quân hùng mạnh đã thần tốc thọc sâu, tiến thẳng vào chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố Sài Gòn-Gia Định: Dinh Độc lập (tức Phủ Tổng thống ngụy), Bộ Tổng tham mưu và Khu Bộ tư lệnh các binh chủng của địch, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh, Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát. Nhân dân thành phố Sài Gòn hân hoan chào đón các lực lượng vũ trang, con em của mình và cùng bộ đội truy lùng địch, tước vũ khí của chúng, dẫn đường cho bộ đội, bảo vệ các cơ sở kinh tế và văn hoá. Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Đúng 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, lá cờ Cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc lập. Đây là thời điểm đánh dấu thành phố Sài Gòn-Gia Định hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Trên đà chiến thắng, từ ngày 30-4-1975, đồng bào và chiến sĩ các tỉnh Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, lần lượt giải phóng các tỉnh còn lại. Ngày 1-5-1975, toàn bộ lãnh thổ đất liền miền Nam đã được giải phóng.

Ngày Lễ Giải Phóng Miền Nam Tiếng Anh Là Gì, Miền Nam Việt Nam

Cách đọc và viết Ngày lễ Giải phóng Miền nam Thống nhất Đất nước tiếng Anh là gì, dịch nghĩa đầy đủ nhất để người nước ngoài có thể hiểu. Đây là ngày lễ quốc gia (Public Holiday) của Việt Nam, với nhiều cách gọi khác nhau trong tiếng Anh, mà chúng tôi sẽ giới thiệu đầy đủ để mọi người dùng tham khảo.

Đang xem: Miền nam tiếng anh là gì

“Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” tiếng Anh là gì?

Trong tên tiếng Việt, ngày lễ 30 tháng 4 có tên chính thứclà: “Ngày Giải phóng (hoàn toàn)miền Nam, thống nhất đất nước”, “Ngày Chiến thắng”,“Ngày thống nhất”, “Chiến thắng 30 tháng 4 lịch sử”.

Tên tiếng Anh phổ biến nhất của ngày lễ Giải phóng miền Nam,thống nhất đất nước là:

Liberation Day/Reunification Day – April 30 (Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước).

Liberation /libə’rei∫n/ – sự giải phóngeunification /’ri:ju:nifi’keiʃn/ – sự thống nhất, hợp nhất lại.Victory /’viktəri/ – chiến thắngNational /’næ∫nəl/ – (thuộc) quốc giaMark /mɑ:k/ – Đánh dấuIndependence /,indi’pendəns/ – Độc lậpThe south /saʊθ/ – miền Nam

Nhiều cách dịch sang tiếng Anh “Ngày giải phóng miền Nam”

Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước dịch sang tiếng Anh có thể dùng nhiều cụm từ khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng và cách nghĩ. Bạn có thể dùng cụm từ Reunification Day (Ngày Thống nhất), Victory Day (Ngày Chiến thắng) hay Liberation Day (Ngày Giải phóng hoặc Ngày Giải phóng miền Nam). Tên chính thức trong văn phong báo chí, văn bản cấp nhà nước thì dùng “Day of liberating the South for national reunification” (Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước).

Theo từ điển Wikipedia miêu tả ngày Giải phóng miền Nam, thốngnhất đất nước là ngày “is a publicholiday in Vietnam that marks the event when North Vietnamese and Việt Cộngforces captured Saigon (now Ho Chi Minh City) on April 30, 1975.” – Tạm dịch:“Đây là ngày lễ quốc gia Việt Nam, đánh dấusự kiện Bắc Việt Nam và Việt Cộng đánh bại Sài Gòn (Nay là TP.Hồ Chí Minh) vàongày 30 tháng 4 năm 1975”.

Hoặc có thể viết là ngày “Liberation of Saigon and reunification of Vietnam in 1975”, tạm dịch là “Giải phóng Sài Gòn và thống nhất Việt Nam năm 1975”. Hay “Vietnam Independence Day 30 April”, tức “Ngày độc lập Việt Nam 30 tháng 4”.

Cách viết và đọc ngày giải phóng miền Nam 30 tháng 4

Chúng ta phải biết phát âm và viết các ngày trong tháng, tháng trong năm. Hiện tại, tiếng Anh có 2 cách viết, là viết ngày trước tháng sau và tháng trước ngày sau. Mỗi cách viết lại có quy tắc đọc riêng mà chúng tôi sẽ hệ thống lại cho mọi người dễ nhớ.

-Ngày 30: thirtieth – /ˈθɜː.ti.əθ/

-Tháng 4: April – UK: ​ /ˈeɪ.prəl/

-Năm 1975: nineteen seventy five – /ˌnaɪnˈtiːn/ – chúng tôi /faɪv/

-Ngày trước, tháng sau: viết “On 30th April, 1975”đọc là “On the thirtieth of April, nineteen seventy five”.

-Tháng trước, ngày sau: viết “On April 30th, 1975”đọc là “April the thirtieth, nineteen seventy five”.

Dịch nghĩa Ngày lễ Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nướcViệt Nam trong tiếng Anh khá đa dạng, bạn có thể dựa trên những gợi ý củamister-map.com để dùng cho phù hợp. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều cách dùngkhác, từ phía những người dân dưới thời chính quyền cũ nói về ngày này là “Ngàytháng 4 đen tối”, “Ngày quốc hận”, “Ngày Sài Gòn thất thủ”. Nhưng đó là cáchnhìn của “bên thua cuộc” và không được chấp nhận tại Việt Nam. Chúng ta vẫn gọiđó là ngày lễ lớn “Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”, một ngày thiêngliêng của dân tộc sau 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vĩ đại.