Top 8 # Xem Nhiều Nhất Tập Làm Văn Lớp 4 Lời Giải Hay Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Asianhubjobs.com

35 Đề Và Gợi Ý Tập Làm Văn Hay Lớp 4

35 đề và gợi ý tập làm văn hay lớp 4 bao gồm đề tập làm văn hay lớp 4 giúp các em củng cố kiến thức, có thêm tư liệu để hoàn thiện bài văn hay hơn.

– Sự việc mở đầu cho câu chuyện là gì?

– Những sự việc tiếp theo lần lượt diễn ra như thế nào? Kể rõ từng hành động, chi tiết cụ thể của việc làm giúp đỡ bạn hay người thân của em: làm việc gì, làm như thế nào?… nêu rõ thái độ, hành động của nhân vật khác trước việc làm của em…

Ngồi trong nhà ấm áp, nhìn ra ngoài mưa rơi lạnh buốt, tôi chợt nhớ ra một điều: sáng nay chị tôi đi học không mang áo mưa. Giờ này cũng là lúc tan học đến nơi. Tôi vội đội nón, khoác tấm ni lông, tay cầm áo mưa, chạy vội đến trường chị. Vừa vặn lớp chị tôi đang cho học sinh ra. Thấy tôi, chị tôi mừng quýnh, cầm áo mưa mặc vào người và cảm ơn tôi rối rít. Hai chị em tôi ra về dưới trời mưa xối xả. Chân chúng tôi bấm chặt xuống đất cho đỡ trơn. Gió thổi mạnh từng cơn như muốn giằng chiếc nón tôi đội trên đầu. Những giọt mưa gõ lộp bộp xuống nón tôi nghe rất vui tai.

Về đến nhà, trong lòng tôi rất vui sướng vì đã giúp đỡ được chị của mình. Câu chuyện xảy ra lâu rồi nhưng đến nay tôi còn nhớ mãi vì đó là một kỉ niệm đẹp của chị em chúng tôi.

Chốc chốc, em bé lại hỏi: “Mẹ đâu? Mẹ đâu?”. Người chị dịu dàng đáp: “Ừ, chị đang dẫn em về với mẹ đây mà!” Vừa nói, bạn vừa chỉ tay về phía trước. Bước lại gần, tôi khẽ hỏi: “Em bạn đấy à?” Bạn đó mỉm cười: “Không, em này bị lạc. Mình đang đưa em đi tìm mẹ đây!” Nói xong, bạn bế em lên, đi qua đường để đến đồn công an gần đó, chắc là bạn muốn nhờ các chú công an tìm hộ mẹ cho em bé. Vừa hay, lúc ấy có một cô trông còn trẻ, hớt hơ hớt hải chạy lại. Em nhỏ mừng rỡ reo lên:

Cô nhớ con mình, vui sướng ôm chầm lấy và còn ngỏ lời cảm ơn chú công an. Chú công an vui vẻ đáp: “Đây không phải là công của chúng tôi mà là công của em đội viên quàng khăn đỏ này đấy!” Người mẹ nắm chặt bàn tay của người bạn gái và trầm trồ khen ngợi: “Quý hóa quá! Thật là quý hóa! Cô cảm ơn cháu nhiều lắm!”

Hôm nay nhận được tiền, chị Nhân của tôi sung sướng lắm vì đây là số tiền đầu tiên do công sức của chị làm ra. Hai chị em bàn với nhau sẽ mua tập, mua bút chì vẽ tranh, mua kẹp tóc, ăn phở, uống sữa, ai cũng phấn khởi.

Buổi chiều, ba đi làm về, áo đẫm mồ hôi. Nhìn dáng gầy gầy của ba trong chiếc áo bạc màu có vá đôi chỗ, không ai bảo ai, hai chị em đều nín lặng. Tối đến, chị Nhân bàn với tôi: “Chúng mình dành số tiền này mua tặng ba chiếc áo để đi làm. Em có đồng ý không?” Tôi nhất trí. Thế là hai chị em bí mật mua áo tặng ba. Món quà được chị Nhân gói cẩn thận, đẹp đẽ rồi phân công tôi mang đến tặng ba. Cầm món quà, ba nhìn hai chị em tôi một cách ngạc nhiên. Má cũng ngỡ ngàng không kém ba. Má giục ba mở ra xem. Khi thấy chiếc áo, ba má cùng thốt lên:

– Ồ, chiếc áo! Làm sao các con có được?

Sau khi biết rõ mọi chuyện, ba cảm động ôm cả chiếc áo và hai chị em chúng tôi vào lòng, nghẹn ngào nói:

– Các con của ba ngoan và có hiếu quá!

Thế rồi, những giọt nước mắt cứ long lanh trên đôi mắt của má.

Chuyện xảy ra đã lâu nhưng hình ảnh “chiếc áo hiếu thảo” và gương mặt thân thương của ba má còn hiện tươi rói trong tâm trí tôi. Đó là một kỉ niệm khó quên vì nó giúp tôi nhận ra một điều đẹp đẽ: vui biết bao khi mình biết quan tâm đến người khác.

Vào mùa hè, người đến xếp hàng lấy nước ở vòi nước cộng cộng phố tôi rất đông, thùng xếp thành dãy dài. Mùa thu ít người lấy nước hơn. Qua đông lại càng ít nữa. Có lẽ vì rét quá, ai cũng lạnh và không hay gội rửa ào ào.

Lứa tuổi chúng tôi còn nhiều đứa tinh nghịch, chân không bẩn mà đi qua cũng chìa chân vào rửa. Những buổi sáng tinh mơ, các bà bán rau ở ngoại ô đi chợ sớm cũng đến máy nước công cộng rửa rau rất lâu.

Một đêm trời rét buốt như kiến cắn, tôi tỉnh dậy rồi không sao ngủ tiếp được.Bỗng nghe tiếng nước chảy xè xè ở máy nước đầu ngõ, chảy mãi như không có người khóa lại. tôi nghĩ: “Chắc có cậu nào qua đó nghịch máy rồi cứ để thế mà đi. Hay là có bà nào đi chợ sớm rửa rau cải, rửa hành gì đây mà quên khóa máy lại?”

Tôi vội tung chăn nhảy xuống, xỏ vội đôi dép rồi mở cử bước ra. Dòng nước vẫn chảy xè xè. Tôi chạy ngay đến khóa luôn máy lại. Trời rét căm căm, hai hàm răng va vào nhau lập cập nhưng lòng tôi lại thấy vui. Tôi bước vào nhà,định sớm mai viết ngay tấm biển để cạnh vòi nước công cộng: “Ai dùng xong nước thì nhớ khóa lại!”

VD2: Giúp chú thương binh qua đường tàu:

Ở bến xe, anh thương binh ấy đã không ngớt lời cảm ơn và khen ngợi một em bé đã cứu anh qua đường tàu hoả. Anh rất vui và cảm phục tấm lòng dũng cảm của em nhỏ

Hôm ấy, cảnh trời đất thật tuyệt đẹp. Xa xa, một lớp mây hồng óng ả nổi bật trên nền trời cao xanh. Ánh nắng vàng nhạt chiếu xuống đất, rải trên cánh đồng lúa xanh rờn. Một anh thương binh đang chống nạng bước đi. Một mắt anh đã bị hỏng, còn một mắt cũng chỉ nhìn thấy lờ mờ.

Hôm ấy, cô giáo dẫn vào lớp một bạn gái và nói với chúng tôi: “Đây là Lan, bạn mới của lớp ta, các em hãy làm quen với nhau đi”.

Cả lớp ngơ ngác nhìn cô bé mặc bộ quần áo có chỗ vá, có đứa thì thầm: “Gớm! Ai thèm làm bạn với nó chứ!” Cô giáo xếp Lan ngồi bàn đầu với tôi. Tự dưng tôi ngồi cách xa Lan ra.

Một hôm, cô giáo giảng bài tập toán, cô gọi Lan lên làm, Lan loay hoay mãi mà không giải được. Bỗng có tiếng nói từ cuối lớp vang lên: “Bài dễ thế mà không làm được, làm mất điểm thi đua của lớp rồi đấy!”

Cô giáo không hài lòng chút nào, cô giáo cho Lan về chỗ ngồi. Lúc ra về, bọn tôi lườm Lan một cái rồi chạy đi. Lúc này nhìn Lan thật tội. Ai bảo lười học!

Chiều hôm ấy, tôi ghé vào cửa hàng mua sách thì thấy Lan gánh nước qua. Nhìn thấy tôi, bạn đi như chạy. Bỗng Lan trượt ngã lăn ra cùng hai xô nước. Một bà béo chạy lại quát ầm ĩ. Lan ôm mặt khóc rồi chạy như bị ma đuổi.

Tôi bám theo Lan đến một ngôi nhà tồi tàn. Bây giờ tôi mới hiểu rằng nhà bạn nghèo lắm! Mẹ thì bị bệnh, bố đi đạp xích lô để kiếm tiền nuôi cả nhà. Còn Lan phải đi làm thuê để có tiền mua thuốc cho mẹ. Thế mà tôi đã hiểu lầm Lan.

Sáng hôm sau, tôi đem chuyện kể cho các bạn trong lớp nghe, ai cũng xúc động, nhận ra sự vô tâm của mình. Thế là cả lớp phát động phong trào: “Góp tiền tiết kiệm, giúp đỡ các bạn nghèo vượt khó”.

Cũng từ hồi đó, chúng tôi luôn gắn bó với Lan. Bây giờ Lan đã trở thành học sinh giỏi của tỉnh. Và tôi với Lan đã trở thành đôi bạn thân từ lúc nào không biết.

Những tin cũ hơn

Tập Làm Văn Lớp 4: Viết Thư

Giải bài tập SGK Tiếng Việt 4 trang 34

Gợi ý trả lời phần Nhận xét SGK Tiếng Việt lớp 4 trang 34

Dựa vào bài tập đọc Thư thăm bạn, trả lời các câu hỏi sau.

Câu 1. Người ta viết thư để làm gì?

Câu 2. Để thực hiện mục đích trên, một bức thư cần có những nội dung gì?

Câu 3. Một bức thư thường mở đầu và kết thúc như thế nào?

Câu 1. Người ta viết thư để thăm hỏi, thông báo tin tức cần thiết cho nhau, trao đổi ý kiến, chia vui, chia buồn hay bày tỏ tình cảm với nhau.

Câu 2. Để thực hiện mục đích trên một bức thư cần có những nội dung sau đây:

+ Lí do và mục đích viết thư.

+ Thăm hỏi tình hình của người nhận thư.

+ Thông báo tình hình của người viết thư.

+ Nêu ý kiến cần trao đổi hoặc bày tỏ tình cảm với người nhận thư.

Câu 3. Một bức thư thường mở đầu và kết thúc

+ Mở đầu: Ghi địa điểm, thời gian viết thư / lời xưng hô.

+ Cuối thư: Ghi lời chúc, lời cảm ơn, hứa hẹn của người viết thư / chữ kí và tên hoặc họ tên của người viết thư.

Gợi ý trả lời phần Luyện tập SGK Tiếng Việt lớp 4 trang 34

Viết thư gửi một bạn ở trường khác nhau để thăm hỏi và kể cho bạn nghe kể tình hình lớp và trường em hiện nay.

Gợi ý:

Để thực hiện bài tập này, học sinh cần nắm vững yêu cầu của đề.

– Viết thư cho ai? (Cho một bạn ở trường khác). Nếu không có bạn ở trường khác, chúng ta có thể tưởng tượng ra một người bạn Linh thế để viết.

– Mục đích viết thư: Viết thư để làm gì? (để hỏi thăm và kể cho bạn nghe tình hình ở lớp, ở trường em hiện nay).

Cách xưng hô Linh thế nào cho phù hợp?

Nội dung thăm hỏi: sức khỏe, việc học tập ở trường mới, tình hình gia đình…

Kể cho bạn nghe những gì về tình hình sinh hoạt các mặt, học tập, văn nghệ, thể thao, về thầy cô, bạn bè).

Dựa vào đó học sinh thực hành viết thư.

Bài tham khảo 1

Lệ Thủy, ngày … tháng …năm

Thùy Linh thân mến!

Vậy là chúng mình xa nhau một học kì rồi phải không Thùy Linh nhỉ. Cả mình và Linh đều lười viết thư cho nhau. Không một lí do nào có thể biện hộ cho sự lười biếng ấy của chúng ta. Hôm gặp Bạch Kim ở cửa hàng bách hóa tổng hợp huyện, Bạch Kim chuyển lời thăm sức khỏe của Linh đến mình. Thú thực mình vui lại vừa buồn. Mình định rằng đợi một thời gian nữa bắt Linh phải viết thư xin lỗi lúc đó mình mới chịu hồi âm cho cậu. Thế mà ráng không được vì đã biết địa chỉ của Linh nên đành phải quá bộ đến thăm Linh trước.

Thùy Linh thân mến!

Có được khỏe luôn không? Học hành thế nào rồi? Hỏi vậy thôi chứ mình biết sức học của Linh rồi. Có bao giờ cậu chịu đựng sau ai bao giờ đâu. Hồi ở cái huyện quê mùa này, Thùy Linh đã là một học sinh xuất sắc thì lên thị xã, dù có nhiều nhân tài đi chăng nữa thì cậu nhất định phải ở trong cái tốp ten đó, phải không? À cô bé Hải Vân – em cậu – đã vào lớp Một chưa? Nó còn bụ bẫm không xinh gái và ngoan ngoãn chứ?

Bạn thân của Thùy Linh

(kí tên)

Nguyệt Minh

Bài tham khảo 2

Minh Hà thân yêu!

Hà Nội đang mưa và lạnh, tớ thấy nhớ bạn vô cùng. Bạn đã xa tớ bao lâu rồi nhỉ? Có phải mới chỉ có 5 ngày không? Sao mà tớ thấy lâu thế! Từ lúc bạn xa tớ đến giờ, không có ai đi ăn kem với tớ nữa, không còn ai đi lang thang buổi tối với tớ ở bờ Hồ nữa. Tớ chưa bao giờ chơi thân với ai cho tới khi gặp bạn. Nhớ lần đầu nhìn thấy bạn, tớ cũng không thích đâu, vì hồi đấy trông bạn hiền quá! Mà tớ thì cá tính giống con trai, tớ nghĩ chúng ta không bao giờ có thể là bạn của nhau được. Nhưng có một điều kỳ diệu đã xảy ra, trong một lần trời mưa to, tớ thì không mang theo áo mưa nên bạn đã rủ tớ đi chung áo mưa với bạn vì bạn với tớ cũng ở gần nhà nhau. Chính cái lần ấy, tớ đã coi bạn là người bạn tốt của tớ.

Bạn thân,

Phương xinh đẹp!

Bài tiếp theo: Soạn bài Tập đọc lớp 4: Một người chính trực

Ngoài ra các bạn luyện giải bài tập SGK Tiếng Việt 4 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc. Các em học sinh lớp 4 còn có thể tham khảo đề thi học kì 1 hay đề thi học kì 2 lớp 4 các môn Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh, Khoa, Sử, Địa, Tin học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của bộ Giáo Dục. Những đề thi này được chúng tôi sưu tầm và chọn lọc từ các trường tiểu học trên cả nước nhằm mang lại cho học sinh lớp 4 những đề ôn thi học kì chất lượng nhất. Mời các em cùng quý phụ huynh tải miễn phí đề thi về và ôn luyện.

Tập Làm Văn Lớp 4: Tóm Tắt Tin Tức

Giải bài tập SGK Tiếng Việt 4 tập 2

Tập làm văn: Tóm tắt tin tức

là lời giải phần Tập làm văn SGK Tiếng Việt 4 tập 2 trang 63 giúp các em học sinh nắm được cách xác định chi tiết cấu tạo một bản tin, tóm tắt toàn bộ nội dung bản tin. Mời các em cùng tham khảo chi tiết.

I. Hướng dẫn giải phần Nhận xét Tập làm văn tập 2 trang 63

Câu 1. Đọc lại bản tin Vẽ về cuộc sống an toàn

a) Bản tin này gồm mấy đoạn?

Bản tin này gồm 5 đoạn.

b)

– Đoạn đầu: Từ đầu đến “khích lệ”.

Đoạn này là phần thông báo về các số liệu: số bài dự thi, số bài đoạt giải và ý kiến nhận định chung về cuộc thi.

– Đoạn hai: Từ “Unicef Việt Nam” đến “em muốn sống an toàn”.

– Đoạn ba: Từ “Được phát động” đến “Cần Thơ, Kiên Giang”.

Đoạn này thông báo về tinh thần nhiệt tình hưởng ứng cuộc thi của thiếu nhi cả nước.

– Đoạn bốn: Từ “Chỉ cần” đến “12 tuổi, giải ba”.

Đoạn này thông báo về sự phong phú của nội dung các bức tranh về dự thi.

– Đoạn cuối cùng thông báo về giá trị nghệ thuật của các tranh đoạt giải.

c) Tóm tắt toàn bộ bản tin: Bản tin Vẽ về cuộc sống an toàn đã thông báo các số liệu chính xác về cuộc thi: 50.000 tranh dự thi, 60 tranh được trưng bày, 46 giải thưởng. Chỉ trong 4 tháng, thiếu nhi cả nước đã sôi nổi gửi tranh về dự thi. Qua các tranh thấy rõ các em đã có kiến thức tốt về an toàn giao thông và các bức tranh đoạt giải đã có chất lượng nghệ thuật cao.

Câu 2. Từ bài tập trên, rút ra nhận xét.

a) Thế nào là tóm tắt tin tức:

– Tóm tắt tin tức là thâu tóm gọn các nội dung của bản tin bằng một văn bản ngắn hơn.

b) Cách tóm tắt tin tức:

– Muốn tóm tắt một bản tin, cần làm như sau:

+ Đọc kĩ đề nắm vững nội dung bản tin.

+ Tìm các đoạn và xác định nội dung chính của mỗi đoạn.

+ Trình bày mỗi điểm chính trong nội dung bằng một, hai câu hay bằng các số liệu, từ ngữ nổi bật.

II. Hướng dẫn giải phần Luyện tập Tập làm văn SGK Tiếng Việt 4 tập 2 trang 63

Câu 1 (trang 63 sgk Tiếng Việt 4): Tóm tắt bản tin sau bằng 3 đến 4 câu

Trả lời:

– Bản tóm tắt:

Vịnh Hạ Long được tái công nhận là di sản thiên nhiên thế giới

– Ngày 17-11-1994, vịnh Hạ Long lần đầu tiên được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.

– Ngày 29-11-2000, UNESCO lại công nhận vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên về địa chất, địa mạo và quyết định này đã được công bố tại Hà Nội vào ngày 11-12-2000.

– Điều này chứng tỏ rằng chúng ta đã hết sức giữ gìn, bảo tồn di sản quý giá này.

Câu 2 (trang 64 sgk Tiếng Việt 4): Dựa theo cách trình bày bài Vẽ về cuộc sống an toàn, em hãy viết phần tóm tắt in đậm cho bài báo Vịnh Hạ Long được tái công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.

Trả lời:

– Phần tóm tắt đó có thể viết như sau:

– Ngày 17-11-1994, UNESCO lần đầu công nhận vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới.

– Ngày 29-11-2000, UNESCO lại công nhận vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên về địa chất, địa mạo.

– Ngày 11-12-2000, quyết định trên được công bố tại Hà Nội.

Ngoài ra các bạn luyện giải bài tậpvà được VnDoc sưu tầm, chọn lọc. Đồng thời các dạng, các môn theo Thông tư 22 mới nhất được cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo đề thi, bài tập mới nhất.

Lời Giải Hay Bài Tập Ngữ Văn Lớp 11: Gợi Ý Trả Lời Câu Hỏi

1. Câu bị động:

Hắn chưa được một người đàn bà nào yêu cả.

Mô hình chung của kiểu câu bị động. Đối tượng của hành động – động từ, bị động (bị, được, phải) – chủ thể của hành động – hành động.

– Chuyển sang câu chủ động. Chưa một người đàn bà nào yêu hắn cả.

Mô hình chung của câu chủ động: Chủ thể hành động – hành động – đối tượng của hành động.

– Thay câu chủ động vào đoạn văn và nhận xét: Câu không sai nhưng không nối tiếp ý và hướng triển khai ý của câu đi trước. Câu đi trước trong đoạn đang nói về “hắn”, chọn “hắn” làm đề tài. Vì thế, câu tiếp theo nên tiếp tục chọn “hắn” làm đề tài. Muốn thế cần viết câu theo kiểu chủ động thì không tiếp tục đề tài về “hắn” được mà đột ngột chuyển sang nói về một người đàn bà nào”. Về câu bị động, các em xem lại Ngữ văn 7, tập hai.

2. Câu bị động: Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Tác dụng: tạo sự liên kết ý với câu đi trước, nghĩa là tiếp tục đề tài nói về “hắn”. Phân tích như ở bài tập 1. 3. Cần viết một đoạn văn về nhà văn Nam Cao, trong đó có dùng câu bị động. Sau đó giải thích lí do dùng câu bị động và phân tích tác dụng của câu bị động đó. Khi giải thích và phân tích, cần dựa vào sự liên kết về ý với các câu đi trước.

DÙNG KIỂU CÂU CÓ KHỞI NGỮ

1. a) Câu có khởi ngữ: Hành thì nhà thị may lại còn.

– Khởi ngữ: Hành

Nhắc lại khái niệm khởi ngữ. Khởi ngữ là thành phần câu nêu lên để tài của câu, là điểm xuất phát của điều thông báo trong câu. Đặc điểm:

+ Khởi ngữ luôn luôn đứng đầu câu.

+ Khởi ngữ tách biệt với phần còn lại của câu bằng từ thì, hoặc từ là, hoặc quãng ngắt (dấu phẩy).

+ Trước khởi ngữ có thể có hư từ còn, về, đối với,… Về khởi ngữ, xem Ngữ văn 9, tập hai.

b) So sánh câu trên (câu có khởi ngữ: “Hành thì nhà thị may lại còn”) với câu tương đương về nghĩa nhưng không có khởi ngữ: Nhà thị may lại còn hành”, ta thấy:

– Hai câu tương đương về nghĩa cơ bản: biểu hiện cùng một sự việc.

– Câu có khởi ngữ liên kết chặt chẽ hơn về ý với câu đi trước nhờ sự đối lập giữa các từ gạo và hành (hai thứ cần thiết để nấu cháo hành). Vì thế viết như nhà văn Nam Cao là tối ưu.

2. Các câu trong đoạn văn đều nói về “tôi”; quê quán, vẻ đẹp thể hiện qua bím tóc, cổ. Cho nên nếu câu tiếp theo nói về mắt thì cần dùng từ mắt ở đầu câu để biểu hiện đề tài, tạo nên mạch thống

nhất về đề tài. Nếu viết câu đó theo phương án A thì không tạo được mạch ý vì đột ngột chuyển sang: đề tài các anh lái xe. Nếu viết theo như phương án B thì câu văn là câu bị động gây ấn tượng nặng nề. Nếu viết theo phương án D thì đảm bảo được mạch ý, nhưng không dẫn được nguyên văn lời các anh lái xe vì trong trường hợp này, việc dẫn nguyên văn lời các anh lái xe tạo nên ấn tượng kiêu hãnh của cô gái và sắc thái ý nhị của lời kể chuyện. Chỉ có phương án C là thích hợp nhất đối với đoạn văn.

3. a). Câu thứ hai có khởi ngữ: Tự tôi.

– Vị trí: Ở đầu câu, trước chủ ngữ.

– Có quãng ngắt (dấu phẩy) sau khởi ngữ.

– Tác dụng của khởi ngữ: Nêu một đề tài có quan hệ liên tưởng (giữa đồng bào – người nghe, và tôi – người nói) với điều đã nói trong câu trước (đồng bào – tôi).

b) Câu thứ hai có khởi ngữ: Cảm giác, tình tự, đời sống cảm xúc.

– Vị trí: Ở đầu câu, trước chủ ngữ (ấy).

– Có quãng ngắt (dấu phẩy) sau khởi ngữ.

– Tác dụng của khởi ngữ: Nêu một đề tài có quan hệ với điều đã nói trong câu đi trước (thể hiện thông tin đã biết từ câu đi trước): tình yêu ghét, niềm vui buồn, ý đẹp xấu (câu trước) → Cảm giác, tình tự, đời sống cảm xúc (khởi ngữ ở câu sau).

DÙNG KIỂU CÂU CÓ TRẠNG NGỮ CHỈ TÌNH HUỐNG

1. a) Phần in đậm nằm ở vị trí đầu câu.

b) Phần in đậm có cấu tao là cụm động từ.

c) Chuyển: Bà già kia: thấy thị hởi, bật cười. Nhận xét: Sau khi chuyển, câu có hai vị ngữ, hai vị ngữ đó cùng có cấu tạo là các cụm dộng từ, cùng biểu hiện hoạt động của một chủ thể là Bà già kia. Nhưng viết theo kiểu câu có một cụm động từ ở trước chủ ngữ thì câu nối tiếp về ý rõ ràng hơn với câu trước đó.

2. Ở vị trí để trống trong đoạn văn, tác giả đã lựa chọn câu ở phương án C (Nghe tiếng An, Liên dị, ng dậy trả lời), nghĩa là lựa chọn kiểu câu có trạng ngữ chỉ tình huống, mà không chọn các kiểu câu khác, vì: Kiểu câu ở phươ.g án A (có trạng ngữ chỉ thời gian khi).

Nếu viết theo phương án này thì sự việc ở câu này và câu trước đó như xa nhau, cách một quảng thời gian.

– Kiểu câu ở phương án B (câu có hai vế, đều có đủ chủ ngữ và vị ngữ). Kiểu câu này lặp lại chủ ngữ (Liên) không cần thiết, gây cho câu văn ấn tượng nặng nề.

– Kiểu câu ở phương án D (câu có 1 chủ ngữ và 2 vị ngữ). Kiểu câu này không tạo được mạch liên kết ý chặt chẽ với câu trước. Chỉ có kiểu câu C vừa đúng về ý, vừa liên kết ý chặt chẽ, vừa mềm mại, uyển chuyển.

3. a) Trạng ngữ: Nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường (câu đầu).

b) Đây là câu đầu văn bản nên tác dụng của trạng ngữ này không phải là liên kết văn bản, cũng không phải là thể hiện thông tin đã biết, mà là phân biệt tin thứ yếu (thể hiện ở phần phụ đầu câu) với tin quan trọng (thể hiện ở phần vị ngữ chính của câu: quay lại hỏi thầy thơ lại giúp việc).

TỔNG KẾT VỀ VIỆC SỬ DỤNG BA KIỂU CÂU TRONG VĂN BẢN

– Thành phần chủ ngữ trong kiểu câu bị động, thành phần khởi ngữ và thành phần trạng ngữ chỉ tình huống đều chiếm vị trí đầu câu.

– Các thành phần kể trên thường thể hiện nội dung thông tin đã biết từ những câu đi trước trong văn bản, hay thể hiện một nội dung dễ dàng liên tưởng từ những điều đã biết ở những câu đi trước, hoặc một thông tin không quan trọng.

– Vì vậy, việc sử dụng những câu kiểu câu bị động, câu có thành phần khởi ngữ, câu có trạng ngữ chỉ tình huống có tác dụng liên kết ý, tạo mạch lạc trong văn bản.