Top 6 # Xem Nhiều Nhất Xem Phim Giải Phóng Điện Biên Phủ Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Asianhubjobs.com

Những Bộ Phim Làm ‘Sống Lại’ Chiến Dịch Điện Biên Phủ

Đây là bộ phim chiến tranh dạng bán tài liệu của đạo diễn Bạch Diệp, ra mắt lần đầu năm 1994 nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 – 07/5/1994).

Hai nhân vật chính trong phim là Phương (Trần Lực), một tiểu đoàn trưởng bộ đội chủ lực và Tấm (NSƯT Thu Hà), cô nữ dân quân kiêm y tá xinh đẹp luôn hết lòng vì bộ đội. Phương và Tấm là hàng xóm với nhau từ nhỏ, hai người gặp lại nhau khi cùng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Khi ấy đơn vị của Phương có nhiệm vụ tiêu diệt Cứ điểm 206- cứ điểm bảo vệ sân bay Mường Thanh.

Trong những ngày cuối cùng của chiến dịch, khi chỉ huy cuộc chiếm lĩnh Cứ điểm 206 Phương bị trọng thương và được đưa đến bệnh viện quân y nơi Tấm làm việc, ở đây Phương được Tấm – người luôn thầm yêu anh hết lòng chăm sóc. Khi vết thương đã lành, Phương tạm biệt Tấm để trở lại đơn vị, cuộc chia tay của họ diễn ra ở một cánh rừng nở đầy hoa ban đỏ. Nhưng cuối cùng, đến ngày Cứ điểm bị đập tan, khi các đoàn quân hành trở về, mặc cho Tấm chạy khắp cánh đồng Mường Thanh nhưng Phương đã không còn trở về.

Bên cạnh câu chuyện tình yêu buồn của Phương và Tấm, bộ phim cũng khiến khán giả rơi nước mắt với cảnh một đơn vị khi ra đi còn nguyên quân số mà chỉ qua một đêm đã hy sinh gần hết, hay cảnh anh thương binh bị thương ở đầu đang gào thét xung phong rồi bỗng ngoan như đứa trẻ con ngồi chơi bắn bi với Tấm.

“Hoa ban đỏ” khắc họa một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc nhưng hy sinh, mất mát và đau thương của con người trong chiến tranh nhưng trên hết là ý chí kiên cường, bất khuất quyết chiến tới cùng của quân và dân ta trong trận đánh lịch sử này.

Kí ức Điện Biên

Đây là bộ phim truyện nhựa thứ sáu của đạo diễn Đỗ Minh Tuấn, do Hãng phim truyện Việt Nam thực hiện và được nhà nước cấp kinh phí 13 tỷ đồng (khoảng một triệu USD theo thời giá), một kinh phí cao so với các phim cùng thời, thậm chí những cảnh cuối của bộ phim còn được quay ở Paris để kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2004). Theo dự kiến ban đầu, bộ phim mang tên “Người hàng binh” theo kịch bản của Nguyễn Thị Hồng Ngát và Đỗ Minh Tuấn, về sau phim được đổi tên thành “Ký ức Điện Biên”.

“Ký ức Điện Biên” được tái hiện qua trí nhớ của Bạo (Phạm Quang Ánh), một lính vệ quốc đoàn trong chiến dịch Điện Biên Phủ và Bernard khi họ gặp lại nhau. Trong quá khứ, Bernard là một trung sĩ thuộc đơn vị Huguette 1 trực tiếp bảo vệ sân bay Mường Thanh nhưng vì quá chán ghét chiến tranh và không chịu nổi việc chứng kiến cảnh đồng đội bị cưa chân mà không có thuốc mê, Bernard đầu hàng Việt Minh để bảo toàn mạng sống của mình. Khi ấy Bạo là một chiến sĩ trong đơn vị bộ đội, anh được lệnh dẫn Bernard về hậu phương để khai thác thông tin.

Dọc đường đi, Bernard bị thương trong một trận rải bom của quân Pháp. Cả hai tình cờ gặp được Mây (Kiều Anh) là một y tá trong đơn vị dân công đang tải gạo lên chiến trường. Vì muốn nhanh chóng trở về đơn vị, Bạo đã nhờ Mây đi cùng mình để chăm sóc cho Bernard, rồi cả Bernard và Bạo cùng có cảm tình với Mây.

Tuy nhiên lúc này, khi chứng kiến sự gần gũi giữa Bernard và Mây đã khiến Bạo phải cố gắng kìm nén ghen tuông và đau khổ.Trong một đêm mưa, khi thấy vắng Bernard, nghĩ rằng Bernard bỏ trốn, Bạo đã vác súng đi tìm để giết anh. Mây đuổi theo can ngăn không được. Nhưng khi chứng kiến cảnh Bernard ngồi khóc giữa bãi xác đồng đội, Bạo như tỉnh ngộ. Chính trong khoảnh khắc bừng tỉnh tính nhân văn ấy, anh dã có Mây. Cảnh Mây ôm choàng lấy Bạo khi mũi súng hạ xuống hiện lên như bức tượng của nhân tính và tình yêu trên nền trời đêm rực rỡ những vệt pháo sáng bay lên.

“Ký ức Điện Biên” hấp dẫn khán giả ở sự đan xem giữa ký ức và hiện tại, sự kết hợp khéo léo giữa hồi tưởng quá và mong ước tương lai. Bên cạnh những hình ảnh đậm chất chiến tranh như những hào bốt, những tiếng bom đạn, cảnh chiến đấu hay những xác chiến la liệt trên thực tế chiến trường, khán giả còn thấy được khao khát hòa bình qua điệu múa cầu hồn hay hình ảnh những người lính Pháp hóa thành những con bồ câu trắng trong trí tượng tượng của Bernard.

Đường lên Điện Biên

“Đường lên Điện Biên” là bộ phim truyền hình Việt Nam dài 26 tập của đạo diễn Bùi Tuấn Dũng (kịch bản: Lê Ngọc Minh – Khuất Quang Thụy – Bùi Tuấn Dũng). Đây là bộ phim dài tập đầu tiên nói về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Phim xoay quanh hành trình của một tiểu đoàn 5 – tiểu đoàn bộ binh chủ lực trong chuyến hành quân xuyên Tây Bắc để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Song song với họ là chuyến đi của 500 cô gái dân công.

Không chỉ nói về những cảnh chiến đấu hay sự khốc liệt của cuộc chiến mà phim còn tập trung vào những khoảng lặng, câu chuyện tình lãng mạn là biểu trưng cho sự gắn bó giữa bộ đội và dân công hỏa tuyến.Tình yêu và lửa đạn, máu và nước mắt cùng hào khí ngàn năm hội tụ ở một thế hệ cha ông để làm nên chiến thắng thần thánh của dân tộc. Bi tráng mà không kém phần lãng mạn là mạch nguồn xuyên suốt của bộ phim.

25 tập phim đã khắc họa đậm nét tính dân dã của người dân công hỏa tuyến miền Trung và Bắc Trung bộ hòa quyện với chất hào hoa của người thị thành xưa trong bối cảnh của cuộc chiến lịch sử.

Để có những thước phim đẹp ưng ý, đoàn làm phim “Đường lên Điện Biên” đã phải di chuyển trên rất nhiều tỉnh thành trong cả nước. Từ Hà Nội đến Điện Biên, Sơn La, Yên Bái… với thời gian khá gấp rút để kịp thời lên sóng vào đúng dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2014).

Điện Biên Phủ – Cuộc chiến giữa hổ và voi

Bộ phim được thực hiện bởi đạo diễn Daniel Roussel, từng là phóng viên thường trú của tờ báo cánh tả Pháp L’Humanite (Nhân đạo) tại Việt Nam trong giai đoạn 1980 – 1986, trước khi trở thành nhà làm phim. Ông từng nhiều lần được gặp và phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp và làm nên “Cuộc chiến giữa hổ và voi”, bộ phim tài liệu nói về trận chiến lừng lẫy năm 1954. Sau đó bộ phim được Đài Truyền hình Việt Nam mua bản quyền phát sóng năm 2009, nhân dịp kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

Cuối năm 1953, Pháp sa lầy vào trên chiến trường Đông Dương. Để tìm giải pháp đàm phán ưu thế, Henri Navarre được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Ngày 20/11/1953, Pháp bắt đầu nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng nơi đây thành pháo đài. Pháp tin Việt Minh với cách đánh truyền thống, khó khăn vũ khí và hậu cần, sẽ thất bại. Vì thế, ngay từ đầu năm 1954, Pháp cho máy bay rải tuyền đơn thách thức Việt Minh tấn công.

Trong phim, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói, lúc đầu, Bộ Tổng Tham mưu vạch ra kế hoạch tấn công chớp nhoáng vào đêm 25/1/1954. Tuy nhiên, do thông tin bị rò rỉ, Đại tướng dời ngày tấn công sang 5h sáng 26/1. Ngày đêm 25/1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã suy nghĩ và đưa ra “quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân”, chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, sang “đánh chắc, tiến chắc”.

Tướng Giáp nhận định “điều quan trọng không phải là một cuộc tấn công chớp nhoáng mà là một cuộc chiến dài hơi, nghiền nát từng phần của quân địch”.

17h30 ngày 13/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Sau ba đợt tấn công, đến 17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Tướng De Castries và toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng.

Sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, Hội nghị Geneva ngày 8/5/1954 bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Sau hội nghị, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam và chấm dứt chế độ thực dân ở các nước này.

Mặc dù mang những nhan đề và hình thức truyền tải khác nhau, nhưng những bộ phim về chiến dịch chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đều đưa đến cho khán giả cái nhìn chân thực, xúc động nhất về những con người đã làm nên lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Kỷ Niệm 66 Năm Ngày Giải Phóng Điện Biên Phủ (7

Nhìn lại tầm vóc chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, thế hệ hôm nay càng cảm phục hơn trí tuệ và bản lĩnh đánh giặc của dân tộc Việt Nam. Trí tuệ và bản lĩnh đó được kết tinh qua sự lãnh đạo sáng suốt tài tình và kịp thời của Đảng, đứng đầu là Hồ Chủ tịch và người trực tiếp chỉ huy là Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, sức mạnh của cả dân tộc đã được huy động một cách triệt để vào trận đánh quyết định này. Chính sức mạnh vật chất và tinh thần của cả dân tộc đã chuyển yếu thành mạnh, vừa đánh, vừa xây dựng lực lượng, càng đánh càng thắng. Đó là một trong những nhân tố quan trọng đầu tiên góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thấm nhuần đường lối kháng chiến của Đảng, nhân dân ta “đồng cam cộng khổ”, vừa đánh, vừa giam chân địch trong lòng thành phố, vừa kéo Pháp lên vùng rừng núi hiểm trở, giáng cho địch những đòn chí tử trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947; Biên giới thu đông 1950; Đường số 18, Hòa Bình, Tây Bắc, mặt trận Bình – Trị – Thiên, Thượng Lào, Đông Bắc Căm-pu-chia… Thắng lợi liên tiếp của 3 nước Đông Dương đã giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, khai thông biên giới Việt – Trung, mở rộng quan hệ giữa nước ta với thế giới, đẩy thực dân Pháp lún sâu vào thế bị động và phân tán lực lượng, làm cho chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp thất bại, tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến.

Liên tiếp thất bại trên chiến trường, Pháp cử tướng Hăng-ri Na-va – Tham mưu trưởng các lực lượng khối Bắc Đại Tây Dương, người đã từng chiến đấu trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới I, từng tham gia bình định Xy-ri-a, Ma-rốc… Với tài chỉ huy của tướng Na-va, cùng với số lượng quân đông nhất (267 tiểu đoàn trong đó có 84 tiểu đoàn quân cơ động chiến lược và phương tiện chiến tranh hiện đại; chi viện ngày càng lớn của Mỹ), Pháp hòng tìm một “lối thoát danh dự” trong cuộc chiến tranh hao người, tốn của, “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” mà nhân dân Pháp, nhân dân tiến bộ trên thế giới kịch liệt phản đối. Chính phủ Pháp hy vọng kế hoạch Na-va sẽ giúp “chuyển bại thành thắng” trong vòng 18 tháng, giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương. “Kế hoạch Na-va chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mỹ cũng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ mọi điều”(4).

Kế hoạch Na-va gồm 2 bước: Bước thứ nhất, giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc và tiến công bình định ở miền Nam, miền Trung Đông Dương, xỏa bỏ vùng tự do Liên Khu V. Bước thứ hai, thực hiện chiến lược tiến công ra Bắc, giành thắng lợi quân sự, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho chúng. Kế hoạch Na-va thể hiện rõ tham vọng “nuốt chửng Việt Nam” của Pháp và Mỹ. Tháng 9-1953, Bộ Chính trị, BCH Trung ương Đảng đã họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954. Bộ Chính trị nhận định, Kế hoạch Na-va đã gây cho ta những khó khăn mới, nhưng bản thân nó chứa đựng nhiều khó khăn và nhược điểm. Đại bộ phận địch tập trung ở đồng bằng Bắc bộ. Ở những chiến trường khác, nhất là miền núi, chúng có nhiều sơ hở và yếu. Theo đó, phải sử dụng mọi biện pháp để giữ vững và phát triển quyền chủ động tiến công chiến lược, điều những bộ phận chủ lực của ta tiến về 5 hướng chiến lược nhằm vào những nơi hiểm và tương đối yếu của chúng mà tiêu diệt, buộc quân địch phải đánh theo cách đánh của ta, trên chiến trường ta đã chuẩn bị, từ đó mà đập tan âm mưu của địch, giành lại quyền chủ động trên các chiến trường.

Tây Bắc được chọn làm hướng tiến công chính của ta, đòn tiến công chiến lược đầu tiên đã điểm trúng huyệt, khiến Na-va vội vã điều động 6 tiểu đoàn cơ động tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh với binh lực lên đến 9 tiểu đoàn. Kế hoạch Na-va bắt đầu bị đảo lộn. Na-va phải tìm cách đối phó với lực lượng của ta.

Ngày 22-11-1953, Na-va cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương với ý đồ tạo thành “pháo đài bất khả xâm phạm”, “cối xay nghiền nát chủ lực Việt Minh”. Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo, vốn là cánh đồng Mường Thanh, nằm trong vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Việt – Lào, cách hậu phương của ta (Việt Bắc) 300 – 500km đường bộ. Vì vậy, Pháp coi Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam – Thượng Lào – miền Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân. Mỹ đánh giá Điện Biên Phủ là “một tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một Véc-đoong ở Đông Nam Á” và tán dương quyết định sáng suốt của tướng Na-va.

Phân tích rõ những điều kiện giành thắng lợi, Đảng ta đã tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ để mở hàng loạt cuộc tiến công chiến lược vào hướng địch yếu, hiểm, chia nhỏ lực lượng địch vào hướng: Bắc bộ, Trung bộ, Tây Nguyên và Nam bộ, đồng thời phối hợp hiệu quả với nước bạn Lào mở các chiến dịch quan trọng ở Trung, Thượng, Hạ Lào và Đông Bắc Căm-pu-chia. Nhờ đó, ta đã làm lực lượng địch phải chia nhỏ, rải ra khắp chiến trường, hạn chế sự chi viện của chúng cho cứ điểm Điện Biên Phủ, từng bước giải phóng vùng đất đai rộng lớn, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị chiến đấu của ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung.

Thắng lợi quân sự trong kế hoạch Đông Xuân 1953-1954 đã tạo tiền đề vô cùng quan trọng để Đảng ta đưa ra đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng với Pháp tại cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị thông qua phương án mở chiến dịch Điện Biên Phủ của Tổng Quân ủy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Như vậy, cả địch và ta đều coi trận giao chiến ở Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến lịch sử. Tháng 12-1953, Hồ Chủ tịch gửi thư cho cán bộ và chiến sỹ mặt trận Điện Biên Phủ, Người căn dặn: “Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh: Quyết tâm tiêu diệt địch, Quyết tâm giữ vững chính sách, Quyết tâm tranh nhiều thắng lợi”(5).

Bên cạnh sự chuẩn bị chu đáo của cả dân tộc “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, còn có sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn Trung Quốc (đồng chí Vi Quốc Thanh làm Trưởng đoàn). Sau khi họp bàn cân nhắc những thuận lợi và khó khăn trên chiến trường giữa ta và địch, Đoàn cố vấn Trung Quốc tham mưu cho chúng ta chuẩn bị đánh Điện Biên Phủ theo phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh”, cần tranh thủ sớm, đánh nhanh bằng sức mạnh hiệp đồng của bộ binh và pháo binh tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chỉ 2 ngày 3 đêm trong điều kiện địch còn đang phòng ngự lâm thời. Đó là cách đánh mà cố vấn Mai Gia Sinh gọi là “oa tâm tạng chiến thuật” tức là dùng mũi thọc sâu “tạo nên sự rối loạn ở trung tâm phòng ngự địch ngay từ đầu, rồi từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tiêu diệt địch trong thời gian tương đối ngắn”(6).

Trước vận mệnh sinh tử tồn vong của dân tộc, nhiệm vụ tối cao được Đảng và Bác Hồ trao cho người cầm quân: “Trận này rất quan trọng phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc không đánh”. Bao đêm trăn trở, nghiên cứu, phân tích tình hình thay đổi trên chiến trường Đông Dương, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, không có lợi cho phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh”; đặc biệt, khi Na-va điên cuồng quyết tâm tăng cường xây dựng công sự, sân bay, bổ sung lực lượng cho Điện Biên Phủ lên tới 12 tiểu đoàn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có nhận định sáng suốt: “Tình hình địch còn thay đổi nên chủ trương cũng có thể thay đổi”, ông quyết định cho hoãn kế hoạch đã chuẩn bị chu đáo chờ lệnh nổ súng của quân và dân ta theo phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định này được xem là một “quyết định khó khăn nhất” trong cuộc đời cầm quân của vị Tổng Tư lệnh mới 43 tuổi!

Kế hoạch “đánh chắc, tiến chắc” được thông qua, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các mặt trận hoãn cuộc tiến công, các đơn vị lùi về địa điểm tập kết. Mặc dù trận địa đã được bố trí, pháo lớn được kéo lên vị trí chiến đấu với bao công sức và máu xương của quân và dân ta, nhưng Đại tướng vẫn quyết tâm lệnh đưa pháo xuống, rồi kéo pháo lên vào vị trí tác chiến mới. Kế hoạch tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được chuẩn bị lại theo phương châm mới “đánh chắc, tiến chắc”. Sự thay đổi phương châm tác chiến thể hiện nghệ thuật đánh giặc tài tình, thông minh của dân tộc ta và tầm nhìn chiến lược của vị Tổng chỉ huy kiệt xuất. Lần đầu tiên ở Việt Nam và cũng rất hiếm trên thế giới, vị Thống soái chỉ huy tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam đã lệnh cho quân kéo pháo lên núi cao, vào hầm chĩa thẳng pháo xuống đầu kẻ thù mà chế áp. Cách đánh này vừa bảo vệ được pháo, vừa nâng cao được uy lực, mức chính xác và mang lại hiệu quả cao nhất.

Thực hành triệt để theo phương châm mới “đánh chắc tiến chắc”, hàng ngàn hệ thống giao thông, trận địa hầm hào kiên cố nhanh chóng hoàn chỉnh, những chiếc xe thồ cần mẫn ngày đêm đưa lương thực, quân trang, quân dụng phục vụ chiến dịch. Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng, ngày 13-3-1954, quân ta được lệnh nổ súng tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây là lần đầu tiên quân ta tiến hành bao vây tiến công một tập đoàn cứ điểm trong điều kiện kẻ thù có vũ khí trang bị hiện đại hơn ta gấp bội. Cùng với việc triệt phá các nguồn hỏa lực của địch: Pháo binh, xe tăng và máy bay chi viện, hệ thống hầm hào trận địa với chiến thuật “vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt” của quân ta từng bước thắt chặt vòng vây, tạo nên sức mạnh tiến công tiêu diệt địch. Dõi theo từng bước tiến của quân và dân ta trên chiến trường, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện khen ngợi, động viên tinh thần cán bộ, đảng viên, chiến sỹ trên toàn mặt trận: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng”(7).

Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân dân ta đã chiến đấu vô cùng anh dũng, phát huy tác dụng của các loại vũ khí có trong tay, tìm ra nhiều cách đánh sáng tạo, vừa đánh độc lập, vừa đánh hợp đồng, xây dựng trận địa tiến công và vây hãm quân thù. Trải qua 3 đợt tấn công liên tục, đến ngày 7-5, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ – một “pháo đài khổng lồ không thể công phá” của thực dân Pháp đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tướng Đờ Ca-xtơ-ri và toàn bộ Bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm đã đầu hàng quân ta vô điều kiện. Lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã tung bay trên nóc hầm chỉ huy. Ở các cứ điểm xung quanh, binh lính và sỹ quan của địch lũ lượt giương cao cờ trắng ra hang.

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc oanh liệt, dân tộc Việt Nam đã đánh bại hoàn toàn kế hoạch quân sự Na-va, làm sụp đổ niềm hy vọng của các giới quân sự và chính trị ở Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, thắng lợi trên chiến trường là cơ sở, điều kiện quyết định thắng lợi trên bàn đàm phán, buộc Pháp phải ký vào Hiệp định Giơ-ne-vơ, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và Đông Dương.

Tìm hiểu thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ của dân tộc Việt Nam, nhà báo Pháp Giuyn Roi đã có một nhận xét đầy hình tượng : Không phải viện trợ bên ngoài đã đánh bại tướng Na-va, mà chính là những chiếc xe đạp Pơ-giô thồ 200, 300 ký hàng và đẩy bằng sức người, những con người ăn chưa đủ no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm ni-lông. Cái đã đánh bại tướng Na-va, không phải là phương tiện, mà là sự thông minh và ý chí của đối phương. Từ cách nhìn khách quan của những học giả, nhà báo nước ngoài, thế hệ hôm nay hiểu được rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, tài tình của Đảng, tài chỉ huy, cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, những chiếc xe thồ ấy, những con người bằng da, bằng thịt của dân tộc Việt Nam đã kiên cường bất khuất “nếm mật nằm gai” trong “56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt. Máu trộn bùn non” cùng nhau viết nên trang sử chói lọi ” 9 năm làm một Điện Biên. Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”.

Điện Biên Phủ chính là thắng lợi của sức mạnh và trí tuệ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng – nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của dân tộc Việt Nam không chỉ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà còn giành thắng lợi thần kỳ trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc sự kiện lịch sử của một số sử gia Phương Tây cho rằng: “Các anh thắng lợi là nhờ có Trung Quốc giúp và do quân đội viễn chinh Pháp không chịu đựng được muỗi a-nô-phen”. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… của thế kỷ 20, đồng thời minh chứng chân lý thời đại: “Một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của lực lượng hòa bình dân chủ và CNXH”.

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới, những bài học và ý nghĩa lớn lao của Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hôm nay. Trong mỗi giai đoạn đi lên của đất nước, tinh thần Điện Biên Phủ vẫn luôn hiện hữu, đó là ý chí quyết chiến, quyết thắng, khát vọng vươn tới độc lập, tự do, hạnh phúc của toàn thể dân tộc Việt Nam. Bằng khối óc và bàn tay của mình, bằng tài năng và sự sáng tạo, chúng ta hoàn toàn có thể biến khát vọng thành hiện thực, hướng tới xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào, mãi mãi trường tồn cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, con người Việt Nam.

(1), (3), (5), (7) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 4, tr.534; tập 7, tr.475; tập 8, tr.378, tr.434. (2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, NXB QĐND, H.1995, tr.414. (4) Đỗ Thiện – Đinh Kim Khánh, Tiếng sấm Điện Biên Phủ, NXB QĐND, H.1984, tr.61.(6) Hoàng Minh Phương, Nắm ngải cứu trên đầu đồng chí Tổng Tư lệnh, Tạp chí Xưa và nay, số 208, 3-2004, tr.10.

Phạm Thị NhungTrường Sĩ quan Lục quân 1

Chiến Thắng Điện Biên Phủ

Ba tiếng Điện Biên Phủ đã trở thành niềm tự hào và biểu tượng của sức mạnh Việt Nam.

‘Chín năm làm một Điện Biên’

Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp.

Trong số đó, chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông (năm 1947) là đòn quyết định làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng và đầu não kháng chiến; Chiến thắng Biên giới (năm 1950) đã tạo ra một bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới, chuyển hẳn sang liên tục tấn công và phản công địch.

Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố.

Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu-Đông năm 1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương.

Theo đánh giá của tướng H.Navarre và các nhà quân sự Pháp-Mỹ thì “Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông Dương và cả miền Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc. Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam”.

Trước âm mưu của địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân với phương châm: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.

Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châu và Thượng Lào, ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ với dự định xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh.

Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc.

Đối với địch, đây có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á. Do đó, chúng liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.

Cụ thể, chúng đã cho tập trung ở đây 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới.

Theo đó, Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava. Và thực dân Pháp tin chắc lòng chảo này sẽ “nghiền nát” quân đội Việt Nam.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.

Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy và Chỉ huy trưởng mặt trận.

Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.

Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng.”

Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000 quân. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch.

Trên 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch…

Đến đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.

‘Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng’

17 giờ ngày 13/3/1954, quân ta tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử bắt đầu.

Ngay phút đầu, trong trận tấn công cụm cứ điểm Him Lam, pháo binh ta đã lập công, bắt chết tên quan tư Paul Pégot – chỉ huy Him Lam và tên quan năm Gôxê – chỉ huy phân khu trung tâm.

Sau 2 giờ chiến đấu, ta tiêu diệt 2 cứ điểm. Tại cứ điểm thứ 3 phía Tây Bắc Him Lam, từ một lô cốt ngầm, địch bắn ra ác liệt. Một chiến sỹ mình đầy thương tích của ta đã trườn lên, dồn hết sức lao vào lấp lỗ châu mai, dập tắt hỏa điểm địch. Đó chính là anh hùng Phan Đình Giót.

Trận đầu phải thắng, đó là truyền thống của quân đội ta. Trong ngày mở màn chiến dịch, ta tiêu diệt Him Lam, diệt 300 tên địch, bắt sống 200 tù binh.

Liên tiếp các ngày từ 14 đến 17/3, ta tiêu diệt nhanh gọn 2 cụm cứ điểm kiên cố vào bậc nhất của địch, đồng thời làm tan rã một tiểu đoàn địch. Quân Pháp ở vị trí Bản Kéo sợ hãi kéo cờ trắng ra hàng. Cánh cửa phía Bắc vào Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị phá toang.

Với khí thế phấn khởi đánh thắng trận đầu, quân ta tấn công đợt 2 vào 5 cao điểm phía Đông then chốt phòng ngự của địch. Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận.

Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp hàng trăm máy bay chiến đấu và vận tải; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương.”

Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Từ ngày 30/3 đến 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm, thắt chặt vòng vây, chia cắt và kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho các cứ điểm.

Đây là đợt tấn công dài ngày nhất, quyết liệt nhất, ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

Từ ngày 1/5/1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Đêm ngày 6/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm kiên cố của địch. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng.

17 giờ 30 ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!

Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ôtô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là biểu hiện rực rỡ sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta. Mới gần 10 tuổi, quân đội ta đã ghi trên Quân kỳ hàng nghìn chiến công, mà đỉnh cao và đời đời bất diệt là Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đây là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thời gian đã lùi xa, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” mãi mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam; là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ, động viên to lớn, đồng thời để lại nhiều bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Diễn biến chính của chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến – Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. (Nguồn: TTXVN)

Ngày 20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, manh nha ý định xây dựng căn cứ quân sự ở đây và ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam chiếm đóng Tây Bắc.

Ngày 3/12/1953, Navarre chính thức quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau khi nghiên cứu, xem xét và cân nhắc những điều kiện thuận lợi tại thung lũng lòng chảo phía Tây Bắc Việt Nam.

Quyết định này đưa tới sự ra đời của tập đoàn cứ điểm “chưa từng thấy” ở Đông Dương với 49 cứ điểm mạnh mẽ, được đầu tư viện trợ tối đa và binh lực và hỏa lực và sự dẫn dắt, chỉ huy của Đại tá De Castries.

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông- Xuân 1953-1954 của ta với Thực dân Pháp, đồng thời cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng tư lệnh mặt trận.

Ngày 26/1/1954, Tổng tư lệnh mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc.”

Ngày 31/1/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ chuyển vị trí đóng quân đến khu rừng Mường Phăng trên đại điểm xã Mường Phăng, huyện Điện Biên cách Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 40km đường bộ và khoảng hơn 15km đường chim bay.

Ngày 13/3/1954, sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, ta chính thức mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ tại Trung tâm đề kháng Him Lam, một trong những cụm cứ điểm mạnh nhất của Pháp nằm phía Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm.

Ngày 31/3/1954, Đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh, thừa cơ tiến vào khu trung tâm, nơi có Sở chỉ huy của De Castries.

Ngày 1/5/1954, Đợt tấn công cuối cùng nhằm kết thúc số phận của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tiến hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất là tiêu diệt nốt A1 và C2, thừa cơ tiến hành tổng công kích. 6/5/1954, vào lúc 20 giờ 30 phút, khối bộc phá 960kg nổ trên Đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Ngày 7/5/1954, sau khi mở được chiếc chìa khóa cuối cùng A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De Castries. Không có sự kháng cự, De Castries cùng Bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng.

Ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneva được ký kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương.

Thứ trưởng Thường trực Bùi Thanh Sơn làm việc tại tỉnh Điện Biên

TGVN. Ngày 22/8, Đoàn công tác Bộ Ngoại giao do Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn làm …

Điện Biên Phủ: Kể chuyện ở thời bình

(TGVN).Câu chuyên được kể ở Hà Nội vào những ngày tháng bình yên sau 65 năm trận chiến “chấn động địa cầu”. Các diễn giả …

De Gaulle và Việt Nam – thêm một góc nhìn để hiểu về chiến thắng Điện Biên Phủ

Tối 6/5, tại Hà Nội, ấn bản tiếng Việt của cuốn sách De Gaulle và Việt Nam (1945 – 1969) của chúng tôi Pierre Journoud đã …

Chiến Dịch Lịch Sử Điện Biên Phủ

Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào – Việt, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng. Đối với đế quốc Pháp – Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á.

Bộ đội ta đánh chiếm hầm Đờ Cát. Ảnh tư liệu

Thấy rõ vị trí quan trọng đó của Điện Biên Phủ, ngày 20-11-1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.

Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và phi đội không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200 tên. Chúng bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 40 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm, mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. Tám cụm cứ điểm họp thành ba phân khu, 80% lực lượng không quân ở Đông Dương và nhiều loại vũ khí hiện đại khác của Pháp và Mỹ đã được đưa vào tác chiến ở Điện Biên Phủ.

Với số quân đông, hoả lực mạnh, công sự vững chắc, các tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là “một tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm”. Xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng thực hiện ý đồ thu hút chủ lực ta lên đó để tiêu diệt, rồi chuyển sang tiến công ta.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.

Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy trưởng mặt trận.

Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, nhân dân ta đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch.

Đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.

Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn địch và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh, giáng một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch. Trong đợt tiến công mở đầu này, Phan Đình Giót đã nêu gương chiến đấu dũng cảm, lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo điều kiện cho toàn đơn vị tiến lên tiêu diệt địch.

Ngày 16-3-1954, địch cho 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Ngày 30-3-1954, ta mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân khu trung tâm.

Đánh vào khu đông, ta tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.

Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 100 máy bay oanh tạc chiến đấu, 50 máy bay vận tải và cho Pháp mượn 29 máy bay C119 có cả người lái; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương”.

Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Bộ đội ta đã có những cố gắng phi thường, chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công rực rỡ. Tuy vậy, do cuộc chiến đấu liên tục, kéo dài và ác liệt, khó khăn về cung cấp tiếp tế cũng tăng thêm nên đã phát sinh tư tưởng tiêu cực, ngại thương vong, mệt mỏi.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, một đợt sinh hoạt chính trị được tiến hành sâu rộng từ các cấp uỷ đến chi bộ, từ cán bộ đến chiến sĩ trong tất cả các đơn vị trên toàn mặt trận. Tư tưởng hữu khuynh tiêu cực bị phê phán sâu sắc tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng được phát huy mạnh mẽ.

Ngày 1-5-1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta lần lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía đông và phía tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của địch.

Ngày 4-5-1954, địch thả tiểu đoàn dù dự bị cuối cùng xuống Điện Biên Phủ.

Ngày 7-5-1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, gồm 21 tiểu đoàn, trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh cơ động chiến lược, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 353 sĩ quan từ thiếu uý đến thiếu tá, 16 trung tá và đại tá, 1 thiếu tướng. Tổng cộng, số lượng địch bị tiêu diệt và bắt sống tại Điện Biên Phủ bằng 4% quân số địch ở Đông Dương, 20% lính Âu – Phi. Ta hy sinh 4.200 đồng chí, mất tích 792 đồng chí, bị thương 9.118 đồng chí.

Ta thu được 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 20 tấn thuốc quân y, 40 tấn đồ hộp, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các loại.

Tại các chiến trường phối hợp trong toàn quốc, ta tiêu diệt 126.070 tên địch.

Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng của nhân dân ta. Điện Biên Phủ ghi một mốc son chói lọi vào lịch sử dân tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt Nam.

Trong con mắt của các học giả nước ngoài, “Điện Biên Phủ là trận Vanmy của các dân tộc da màu”, “trên thế giới, trận Oatéclô cũng ít có tiếng vang hơn. Điện Biên Phủ thất thủ đã gây ra những nỗi kinh hoàng ghê gớm, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của nền cộng hoà. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn đang âm vang”.

– Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.5, tr.403.

– Chiến thắng Điện Biên Phủ – mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.847.

– Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, chúng tôi tr.390-440.

– Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.143-144.

– Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên – Bộ Tư lệnh Quân khu 2– Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến thắng Điện Biên Phủ – mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.847.

– Jules Rây: Tiếng sấm Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr.284.