Đề Xuất 3/2023 # Ý Nghĩa Lịch Sử Đại Thắng Mùa Xuân Năm 1975 # Top 7 Like | Asianhubjobs.com

Đề Xuất 3/2023 # Ý Nghĩa Lịch Sử Đại Thắng Mùa Xuân Năm 1975 # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Ý Nghĩa Lịch Sử Đại Thắng Mùa Xuân Năm 1975 mới nhất trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là trận quyết chiến chiến lược vĩ đại của quân dân ta, diễn ra liên tục trên chiến trường, mở đầu là Chiến dịch Tây Nguyên với chiến thắng Buôn Ma Thuột, tiếp đó là đòn tiến công chiến lược giải phóng Huế – Đà Nẵng, cuối cùng là đòn tiến công giải phóng Sài Gòn – Gia Định bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, nhân dân ta đã kết thúc và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả dân tộc Việt Nam vang khúc khải hoàn, thắng lợi đó đã chấm dứt 117 năm chống lại các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, hai miền Nam Bắc nối liền một dải.

Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại thắng mùa Xuân 1975 đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam với trí tuệ và tài thao lược trong chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm và chiến thắng, đây là một chiến công lớn trong thế kỷ XX của dân tộc Việt Nam, là thiên anh hùng ca bất hủ của chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh, như một kỳ tích, một huyền thoại mang tầm vóc thời đại đi vào lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết quả tổng hợp của thời cơ cách mạng, sự phát triển có tính chất bước ngoặt về thế và lực của cách mạng Việt Nam, sự hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để làm nên chiến thắng vĩ đại – chiến thắng 30/4/1975, là thể hiện đỉnh cao của khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, đó là nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu chống mạnh, lấy ít đánh nhiều, lấy trang bị kỹ thuật ít hơn và kém hiện đại đánh thắng kẻ thù có trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, biểu thị một tư duy quân sự sáng tạo.

Chiến thắng 30/4/1975, khẳng định tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương hướng cách mạng đúng đắn, đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, đó là đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự hiện thực hóa của đường lối lãnh đạo: kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo nên xung lực cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Lý luận cách mạng sáng tạo, đường lối đúng đắn đã trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp yếu tố trong nước với quốc tế, phối hợp nhịp nhàng sức mạnh của hai miền Nam Bắc, để đi tới chiến công hiển hách, thắng lợi hào hùng vào ngày 30/4/1975.

Năm 2020 là tròn 45 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 30/4/1975, vẫn luôn in dấu ấn sâu đậm trong trái tim và khối óc của mỗi người dân Việt Nam và bạn bè tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, bởi đây là ngày lịch sử đánh dấu thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội trong thế kỷ XX, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Năm 2020 cũng là năm đất nước có nhiều ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn, sự kiện chính trị quan trọng, như: 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 – 2020); 75 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945 – 2020); 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 2020); năm tiến hành đại hội Đảng bộ các cấp, chuẩn bị tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đặc biệt, năm 2020 là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, nhiều nhiệm vụ lớn, quan trọng đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cần nỗ lực và tập trung giải quyết. Chiến thắng 30/4/1975 sẽ mãi mãi vẫn là sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thành tựu đã đạt được trong gần 35 năm đổi mới đất nước từ 1986 đến nay, là kết tinh của sự kế thừa truyền thống anh dũng, kiên cường trong chiến đấu, năng động và sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với ý chí quyết tâm, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh thời đại và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất định đất nước ta sẽ nắm bắt thời cơ, thuận lợi, vượt qua thách thức, khó khăn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu lập nên những kỳ tích vĩ đại, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng đổi mới, sáng tạo phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ gìn hòa bình, ổn định; phấn đấu giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa III tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2004, tập 37, trang 471).

Theo hanoi.gov.vn

Đại Thắng Mùa Xuân Năm 1975: Sức Mạnh Đại Đoàn Kết

Trong cuộc trò chuyện với phóng viên báo Kinh tế & Đô thị, chúng tôi Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng cho rằng, 45 năm sau chiến thắng vĩ đại ấy, có rất nhiều bài học đến bây giờ vẫn còn giá trị thời sự, trong đó bài học lớn nhất chính là nêu cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc.

Bài học từ sự đoàn kết, sáng tạo Về ý nghĩa của Chiến thắng mùa Xuân năm 1975 đã có nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu cả trong nước và quốc tế đề cập. Với tư cách là người nghiên cứu lịch sử, theo ông đâu là yếu tố quyết định đến thắng lợi lịch sử trọng đại này?

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà:Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là thành quả của ý chí đoàn kết và tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của toàn thể dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu cho ý chí đó và cũng là linh hồn của cuộc kháng chiến chính là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhớ lại năm 1969, trong thư chúc Tết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hai câu thơ vừa là mệnh lệnh chiến đấu, vừa dự báo viễn cảnh niềm vui sum họp khi đất nước thống nhất: “Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào! Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn”. Bằng Hiệp định Paris tháng 1/1973, chúng ta đã buộc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Bước thứ hai chính là đánh đổ chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Thắng lợi này đã thể hiện được tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng thể hiện quyết tâm của toàn thể Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ 21 năm chịu rất nhiều hy sinh, gian khổ. Cuối cùng, miền Nam đã được giải phóng, non sông thu về một mối. Thời khắc lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc lập đánh dấu sự toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Đứng về góc độ nghiên cứu lịch sử, theo tôi để chiến thắng một kẻ thù lớn mạnh về quân sự cũng như về kinh tế như đế quốc Mỹ, nếu chúng ta lấy lực lượng ra so sánh thì không thể được, khi tương quan lực lượng về quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật của kẻ thù gấp chúng ta nhiều lần. Vì thế, chúng ta phải tạo nên sức mạnh tổng hợp, bắt nguồn từ lòng yêu nước của người dân, từ truyền thống đánh giặc của cha ông, từ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của mọi người Việt Nam. Đây là sức mạnh của sự nghiệp chính nghĩa. Lúc đó, ai đi chiến đấu cũng nghĩ là vì đất nước nên có thể chấp nhận hy sinh. Với một đất nước, một dân tộc gan góc như thế thì không kẻ thù nào có thể đánh bại được.

Thực tế đã chứng minh như vậy. Chúng ta đã đánh bại được thế lực xâm lược lớn mạnh nhất của thời đại. Đây là thành quả của sự kết hợp sức mạnh tổng hợp trên các mặt trận chính trị, ngoại giao và huy động được lòng yêu nước, sự đoàn kết của toàn dân. Theo tôi, chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn là chiến dịch được chuẩn bị bài bản nhất, lực lượng đông đảo nhất và đã giành chiến thắng vang dội nhất trong một thời gian ngắn nhất. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm đã kết thúc oanh liệt và hào hùng như vậy.

45 năm đã qua, nhìn lại những chiến công ấy, theo ông, đâu là những bài học để lại cho thế hệ hôm nay và cả thế hệ tiếp theo?

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà: Thực tiễn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã chứng minh, khi “ý Đảng” hợp với “lòng dân” thì sẽ hội tụ được sức mạnh, làm cho “thế trận lòng dân” càng được phát huy cao độ, tạo nên cao trào cách mạng quyết tâm giành toàn thắng. Tôi nghĩ rằng, thế hệ hôm nay cần học bài học từ lịch sử, từ sự đoàn kết, đồng tâm, nhất trí, sáng tạo, quyết tâm chiến đấu để chiến thắng kẻ thù xâm lược, thì giờ đây là quyết tâm chiến đấu, chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu để đưa đất nước phát triển. Người Việt Nam bản chất rất năng động, thông minh, sáng tạo, nếu tạo được sự đồng tâm, nhất trí giữa lãnh đạo với quần chúng Nhân dân thì mọi việc đều có thể thực hiện tốt đẹp. Dựa được vào dân, thực hiện đúng khẩu hiệu của dân, do dân, vì dân thì tôi nghĩ không có việc gì mà chúng ta không thể vượt qua.

Khi ý Đảng hợp với lòng dân Nhìn từ thực tiễn, theo ông, những bài học đó, đặc biệt là bài học về tinh thần đại đoàn kết đang được vận dụng vào công cuộc đổi mới đất nước hiện nay thế nào?

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà: Đúng như Bác Hồ đã nói: “Sự nghiệp cách mạng bắt đầu từ dân, cuối cùng cũng vì dân”. Đại đoàn kết và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc là bài học xuyên suốt tiến trình lịch sử từ khi Đảng thành lập cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đến kháng chiến chống Pháp rồi kháng chiến chống Mỹ và trong suốt quá trình Đảng tiến hành công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay. Theo tôi, những bài học để giành thắng lợi trong chiến tranh của 45 năm trước, đang được Đảng vận dụng sáng tạo vào công cuộc đổi mới đất nước ngày hôm nay và đang cho thấy những kết quả đáng tự hào.

Đảng ta đã phát huy được sức mạnh, ý chí quyết tâm của người Việt Nam trong kháng chiến chống ngoại xâm vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Đồng thời, vận dụng sáng tạo bài học đoàn kết, đó là đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết quốc tế, nhờ sự đoàn kết ấy chúng ta mới có những thành công trong sự nghiệp đổi mới. Năm 1986, bình quân thu nhập đầu người của người Việt Nam chỉ 120 USD, đến năm 2019, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người. Về chính trị, chúng ta đã tham gia thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và gần 200 nước đã đặt quan hệ ngoại giao với chúng ta. Đồng thời, chúng ta đã tham gia vào tất cả các tổ chức quốc tế lớn, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Vị thế và vai trò của Việt Nam đang ngày càng được nâng cao.

Từ những thành quả đã có, điều quan trọng nhất hiện nay, theo tôi, Đảng phải tiếp tục phát huy, khơi dậy được khả năng sáng tạo của Nhân dân, đoàn kết và tạo nên sức mạnh của cả dân tộc. Mà muốn đoàn kết thì ý Đảng phải hợp với lòng dân, ý Đảng mà ngược với lòng dân hiệu quả công việc không đạt được. Tức là trong chủ trương, chính sách của mình, Đảng, Nhà nước phải có điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn, phù hợp với tình hình quốc tế, phản ánh được mong đợi của người dân. Tức là Đảng, Nhà nước cần lắng nghe ý kiến phản biện của người dân, chọn lọc, tiếp thu đưa vào những quyết sách những gì tinh tuý có thể tiếp thu được, áp dụng được. Bởi lịch sử đã chứng minh bất kể sự kiện gì nếu không có sự tham gia của người dân, sự đồng thuận của người dân rất khó thực hiện. Do đó, phải biến khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành thực tiễn. Và phải thêm điều nữa là dân được hưởng, chứ chỉ biết, bàn, làm, kiểm tra mà không được hưởng cái gì thì thiếu hẳn một vế quan trọng. Đừng để khẩu hiệu đó chỉ là hình thức nữa mà nó phải thực chất.

Với “cuộc chiến” đang rất thời sự hiện nay là chống dịch Covid-19, ông đánh giá thế nào về việc phát huy tinh thần đại đoàn kết, “thế trận lòng dân” trong đẩy lùi dịch bệnh?

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà: Sau 45 năm đất nước hòa bình lập lại, Đảng, Chính phủ ta lại mới dùng những từ “chống giặc” trong những văn bản chỉ đạo chính thức của mình. Với những gì diễn ra trong 3 tháng qua và đặc biệt là những ngày gần đây cho thấy những chủ trương, giải pháp của Việt Nam khi “đánh giặc” vô hình Covid-19 đang có hiệu quả và được quốc tế ghi nhận. Trong đó, theo tôi, quyết sách đúng đắn là chúng ta đã huy động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đoàn kết một lòng, cùng chung tay quyết chiến thắng đại dịch. Chính sự phối hợp nhịp nhàng cùng tinh thần quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị đã tạo nên sức mạnh kiên cường.

Theo dõi dư luận tôi thấy, người dân từ hoang mang lo lắng, hoảng loạn, đã nhanh chóng lấy lại cân bằng và an tâm tin tưởng hơn khi các giải pháp như khoanh vùng, cách ly, sàng lọc, điều trị tích cực được thực thi hiệu quả. Chính sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị đã tạo nên sự đồng thuận cao trên phạm vi toàn xã hội, thực sự là “ý Đảng – lòng dân” đã gặp nhau. Vì thế đã khơi dậy, nâng cao niềm tin đối với Đảng, Nhà nước, đã hình thành nên “phong trào cách mạng” rộng rãi trong Nhân dân trên cuộc đấu tranh “chống dịch như chống giặc” này. Tôi thấy rất nhiều phong trào, tấm gương của tập thể, cộng đông và cá nhân đáng quý đã xuất hiện như chung sức, đồng lòng, giúp nhau vượt qua khó khăn, tình nguyện tham gia vào tuyến đầu chống dịch… Đặc biệt, người dân đã chấp hành nghiêm các quy định của cơ quan chức năng về phòng, chống dịch, tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc để chiến thắng dịch bệnh. Tôi tin rằng, với việc phát huy tinh thần đoàn kết toàn dân tộc một cách mạnh mẽ trong lúc đất nước gặp khó khăn này, chúng ta sẽ chiến thắng “giặc covid” trong một ngày không xa.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Kỷ Niệm 44 Năm Ngày Giải Phóng Miền Nam: Đại Thắng Mùa Xuân 1975

Nhân dịp kỉ niệm 44 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2019), Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) xin trân trọng giới thiệu bài viết “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo, sáng tạo” của Đại tá Trần Tiến Hoạt-nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

Chỉ đạo chiến lược kiên quyết, sắc bén, linh hoạt

Do chịu thất bại nặng nề trên chiến trường và phong trào phải đối chiến tranh dâng cao cả trong và ngoài nước, tháng 1/1973, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút quân về nước. Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, Mỹ tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự chỉ đạo chính quyền, quân đội Sài Gòn phá hoại Hiệp định vừa ký kết, mở hàng ngàn cuộc hành quân “bình định, lấn chiếm”, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam. Chính phủ Mỹ còn thi hành chính sách ngoại giao xảo quyệt, thỏa thuận với các nước lớn xã hội chủ nghĩa cắt giảm viện trợ, gây áp lực hạn chế thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước âm mưu và hành động chiến tranh mới của địch, cách mạng miền Nam gặp những khó khăn, tổn thất nhất định. Nhiều địa phương tỏ ra lúng túng, nhấn mạnh đến hòa bình, hòa hợp, buông lỏng tư tưởng chiến lược tiến công nên trên một số địa bàn bị mất đất, mất dân. Chỉ tính riêng trong năm 1973, địch đóng thêm 500 đồn bốt, chiếm thêm 70 xã và gần 1.000 ấp, kiểm soát thêm 65 vạn dân…

Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường, nồng nhiệt chào đón Quân giải phóng tiến vào thành phố. Ảnh: Hứa Kiểm -TTXVN

Nắm bắt tình hình trên, tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 nhấn mạnh: Bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng cũng là sử dụng bạo lực cách mạng, do đó phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao để giành toàn thắng. Thực hiện nghị quyết của Đảng đề ra, quân dân ta trên chiến trường đã kiên quyết mở những cuộc phản công, tiến công trực tiếp giáng trả mọi hành động chiến tranh, tiêu hao, tiêu diệt một phần sinh lực địch, đánh bại cơ bản kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng, bảo vệ, mở rộng vùng giải phóng, tạo ra thế và lực mới cho kháng chiến. Đặc biệt, ta giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Đường 14 – Phước Long (từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/1/1975) loại khỏi vòng chiến đấu trên 4.000 địch, giải phóng toàn tỉnh Phước Long (Đông Nam Bộ) với trên 50.000 dân. Chiến thắng này cho thấy khả năng chiến đấu của quân chủ lực ta đã hơn hẳn quân chủ lực của địch, đồng thời cho thấy khả năng phản ứng rất hạn chế của Mỹ, tạo thêm cơ sở cho cơ quan chỉ đạo chiến lược cách mạng hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Cuối năm 1974, đầu năm 1975, so sánh lực lượng ở miền Nam có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng, trên cơ sở đó, Hội nghị Bộ Chính trị (từ 30/9 đến 7/10/1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ 18/12/1974 đến 8/1/1975) đã ra nghị quyết lịch sử, hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước trong thời gian 2 năm (1975 – 1976). Theo kế hoạch đề ra, trong năm 1975, cách mạng sẽ tranh thủ thời cơ bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo tiền đề để trong năm 1976 tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa giành toàn thắng. Tuy đề ra kế hoạch 2 năm, nhưng Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: Nếu thời cơ đến sớm thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Về phương hướng, yêu cầu đặt ra, Bộ Chính trị nhấn mạnh: cần tranh thủ thời cơ thực hiện tổng công kích-tổng khởi nghĩa, phải đánh thắng nhanh để giảm thiệt hại về người và của cho nhân dân, đồng thời giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.

Đây thực sự là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh, thể hiện tầm cao trí tuệ, tư tưởng và truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam, điều đó vượt lên trên mọi toan tính của các nhà hoạch định chính sách phía Mỹ, đồng thời đập tan những luận điệu xuyên tạc về “các cuộc tắm máu” mà các thế lực thù địch, phản động ở trong và ngoài nước rêu rao. Trên thực tế khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, nắm bắt kịp thời những diễn biến của chiến trường, Bộ Chính trị không ngừng bổ sung quyết tâm chiến lược, quyết định rút ngắn thời gian: giải phóng hoàn miền Nam ngay trong năm 1975 (cuộc họp ngày 18/3/1975), giải phóng hoàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975 (cuộc họp ngày 25/3/1975), giải phóng hoàn miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là ngay trong tháng 4 năm 1975 (cuộc họp ngày 1/4/1975).

Thực hành tổng tiến công và nổi dậy toàn diện, triệt để, nhanh gọn

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 4/3/1975 và kết thúc vào ngày 30/4/1975, trong đó tiến công quân sự đóng vai trò quyết định với ba chiến dịch chiến lược liên tục về thời gian và liên kết về không gian đi đến đánh sập quân đội Sài Gòn. Mỗi chiến dịch chiến lược lại có cách thức tổ chức thực hiện độc đáo, sáng tạo khác nhau.

Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3 đến ngày 3/4/1975) là đòn giáng mở đầu Tổng tiến công và nổi dậy nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh nam Tây Nguyên, mở rộng hành lang nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới cho chiến trường. Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên xác định trận tiến công Thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt. Lực lượng cách mạng hoàn toàn áp đảo. Ta sử dụng cách đánh mới: tổ chức các mũi đột kích binh chủng hợp thành kết hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh bí mật triển khai trước đánh thẳng vào trung tâm thị xã, nhanh chóng tiêu diệt cơ quan chỉ huy đầu não địch rồi mới phát triển trở ra bên ngoài thị xã. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, tiếng súng đánh chiếm Buôn Ma Thuột bắt đầu. Đại bộ phận các đơn vị bộ binh cơ giới, xe tăng thọc sâu tại các vị trí chờ đợi từ xa trên các hướng, các trục đường khác nhau theo lệnh vượt qua các tuyến vòng ngoài ào ạt đánh chiếm những mục tiêu chủ yếu trong thị xã. Có những đơn vị phải vượt qua chặng đường dài 30-40 km nhưng vẫn bảo đảm thời gian hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đòn tiến công đã làm cho Mỹ, chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, choáng váng. Mọi sự kháng cự và ứng cứu của địch đều bị đập tan. Đến trưa ngày 11 tháng 3, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã. Việc đánh chiếm giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột trong hơn một ngày đêm là một trong những chiến công vang dội của cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trực tiếp mở ra thắng lợi của toàn chiến dịch Tây Nguyên nói riêng, toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói chung.

Tiếp theo là đòn tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng (26/3 đến 29/3/1975). Sau khi mất Tây Nguyên, chính quyền và quân đội Sài Gòn rơi vào tình trạng hoang mang, rối loạn. Địch tập trung quân về giữ thành phố Huế và khu liên hợp quân sự Đà Nẵng, chờ đợi viện binh từ phía Nam ra phản công. Nhạy bén tranh thủ thời cơ, ta nhanh chóng mở cuộc tiến công trong hành tiến giải phóng Huế (26/3), sau đó phát triển thành chiến dịch tiến công quy mô lớn bằng thế hợp vây của ba cánh quan từ ba hướng Bắc, Tây, Nam đánh vào Đà Nẵng, phá tan thế co cụm, diệt và làm tan rã 10 vạn địch, làm thay đổi hẳn tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường.

Đánh chiếm Dinh Độc Lập. Ảnh: Mai Hưởng – TTXVN

Đến những ngày cuối tháng 4 năm 1975, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng: Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm bằng được: Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc lập, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất. Về mặt lực lượng, quân ta vẫn chiếm ưu thế áp đảo. Nhưng đánh bằng cách nào có hiệu lực nhất, để vừa phát huy hết sức mạnh của tất cả lực lượng, giành thắng lợi nhanh nhất, vừa giảm thiểu được sự tàn phá của chiến tranh (giữ được Sài Gòn hầu như nguyên vẹn) là vấn đề đặt ra cấp thiết. Lúc này, trong nội thành Sài Gòn, địch tổ chức phòng thủ thành 5 liên khu do toàn bộ lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự phụ trách. Ở vòng ngoài, chúng bố trí các sư đoàn chủ lực mạnh muốn ngăn chặn quân ta từ xa 30-50km, đề phòng khi bị tiến công, chúng sẽ từng bước lùi dần và co cụm về Sài Gòn “tử thủ”. Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng cách đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, đó là dùng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, tiêu diệt, làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch ở vòng ngoài; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới hóa mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu đã được lựa chọn trong nội thành. Với cách đánh như vậy, quân ta hoàn toàn tập trung được sức mạnh để đánh vào các mục tiêu chủ yếu đã lựa chọn kết hợp với tiêu diệt địch ở vòng ngoài không cho địch trong ngoài ứng cứu làm giảm bước tiến quân của ta.

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi vẻ vang đã khẳng định cho cách đánh này là hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, cách mạng đã giữ được thành phố Sài Gòn hầu như nguyên vẹn. Đó là một thành công to lớn mà cả thế giới thấy kinh ngạc.

Phối hợp chặt chẽ với các đòn quân sự then chốt là các cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân các địa phương khắp chiến trường (đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long) theo phương thức xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Đến ngày 2/5/1975, miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng.

Như vậy, trong một thời gian ngắn (55 ngày đêm), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng đã diệt và làm tan rã hơn 1 triệu quân chủ lực và khoảng 1,5 triệu quân thuộc lực lượng phòng vệ dân sự của địch, đập tan bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn, giải phóng miền Nam, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời kết thúc vẻ vang cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), mở ra kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam: cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc, khẳng định nét độc đáo, sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh của Đảng Lao động Việt Nam phù hợp với yêu cầu của thời cơ quân sự, thời cơ chính trị và hơn hết khẳng định cho trí tuệ, tài thao lược Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Đề xuất

Những Bức Điện Lịch Sử Trong Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân Năm 1975.

..Trong suốt quá trình chiến đấu, khắp các mặt trận đều thường xuyên, liên tục nhận được những bức điện chỉ đạo rất nhanh nhạy, sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, góp phần cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ quyết tâm giành được thắng lợi cuối cùng. 

10h45′ ngày 30/4/1975, xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng dinh Độc Lập cùng bộ đội tiến vào bắt sống Tổng thống ngụy Dương Văn Minh và toàn bộ nộicác chính quyền Sài Gòn, kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh

…Tây Nguyên, rồi Trị Thiên – Huế, Đà Nẵng thất thủ đã làm cho những tấm lá chắn của quân ngụy ở phía Bắc đã bị phá toang. Con đường chiến thắng của quân ta dẫn tới sào huyệt cuối cùng của chế độ Sài Gòn đang mở rộng.

Ngay trước khi giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng, chiều 29 tháng 3 năm 1975, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn gửi điện cho Trung ương Cục miền Nam: “…Tình hình biến chuyển mau lẹ. Cuộc cách mạng miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt… Trên thực tế, có thể coi chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu từ đây”.[1]

Sáng ngày 31 tháng 3 năm 1975, tại Hà Nội, Bộ Chính trị họp mở rộng. Đây là cuộc họp lịch sử bàn về đòn chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Không khí phấn khởi tràn ngập “Nhà con rồng” – (tức phòng họp của Bộ Tổng Tư lệnh xây dựng trên nền Điện Kính thiên trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long – BT), những nét mặt rạng rỡ, những ánh mắt sáng ngời, những cái bắt tay hứa hẹn…

Sau khi phân tích kỹ tình hình chiến trường, Hội nghị nhất trí nhận định những nhân tố mới đã xuất hiện rõ nét trong trận Đà Nẵng. Ta hơn hẳn địch cả về thế chiến lược lẫn lực lượng quân sự, chính trị. Dù Mỹ có tăng viện cũng không thể cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất. Phương thức tác chiến chiến lược của ta là phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược (chủ lực, nông thôn và thành thị), từ ngoài đánh vào, kết hợp với lực lượng tại chỗ từ trong đánh ra, lấy chủ lực từ ngoài đánh vào là quyết định, tập trung lực lượng tiến công địch, nhanh chóng lợi dụng thời cơ, dồn dập phát triển thắng lợi…

Sau hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn điện ngay vào chiến trường: “…Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp. Tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc”.[2]

Từ cuộc họp ngày 31 tháng 3 năm 1975, số phận của chế độ Sài Gòn đã được định đoạt. Quyết tâm của Bộ Chính trị cổ vũ mạnh mẽ nhiệt tình cách mạng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.

Ngày 7 tháng 4 năm 1975, căn cứ tin tức từ các mặt trận báo về, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị đang đổ vào chiến trường: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”.[3]

Đến ngày 14 tháng 4 năm 1975, thể theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch tấn công vào Sài Gòn – Gia Định và nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước, trong bức điện số 37-TK, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị đã đáp ứng kịp thời ý nguyện thiết tha và thiêng liêng ấy: “Đồng ý Chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”.[4]

Vậy là kể từ ngày 14 tháng 4 năm 1975, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm được vinh dự mang tên vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Trong suốt quá trình phát động cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, thực hiện truyền thống nhân nghĩa “lấy trí nhân thay cường bạo”, “đánh kẻ chạy đi, chứ không đánh người chạy lại” của dân tộc ta, nên Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương luôn nhắc nhở các cánh quân phải thực hiện đúng chế độ nhân đạo đối với tù binh và hàng binh của địch. Trong bức điện của Ban Bí thư, ngày 18 tháng 4 năm 1975 đã nhấn mạnh: “…Các loại binh lính sĩ quan của địch đã bỏ ngũ về nhà, về hưu, giải ngũ, trình diện, thì coi như dân thường… Những tên là lính và hạ sĩ quan nếu đã cải tạo tốt có quê ở vùng giải phóng thì cho về với gia đình”.[5] Cũng chính nhờ có chính sách nhân đạo và khoan dung này đã góp phần làm lung lạc, giảm sút tinh thần chiến đấu của quân ngụy.

Để chuẩn bị cho những trận đánh cuối cùng, từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn vận tải Trường Sơn vận chuyển vào Nam Bộ 115.000 quân và 90.000 tấn hàng (trong đó có 37.000 tấn vũ khí, 9.000 tấn xăng dầu). Riêng trong những ngày “chuẩn bị nước rút” từ ngày 5 đến ngày 26 tháng 4, vừa khai thác vừa vận chuyển, ta đã đưa vào chiến trường 10.100 tấn đạn, 2.300 tấn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, 2.600 tấn xăng dầu… Nhiều trạm sửa chữa ô tô, sửa chữa pháo và tăng được bố trí dọc đường, phục vụ cơ động của chiến dịch. Trong giai đoạn cuối cùng của chiến tranh, nổi lên tác dụng to lớn của hậu cần tại chỗ. Trục đường 14 từ Đồng Xoài đi Cây Gáo, Bến Bầu được gấp rút thi công. Các đoàn quân hậu cần ở các hướng củng cố và mở rộng tuyến đường chiến dịch với tổng chiều dài hơn 3.000 ki-lô-mét. Đặc biệt, trong những ngày hạ tuần tháng 4, hậu cần Miền đã đưa 10.000 cán bộ, chiến sĩ từ tuyến sau lên thành lập 8 tiểu đoàn cơ động, huy động gần 4.000 xe vận tải, hơn 600 thuyền máy, ca nô, hàng nghìn xe đạp thồ và hơn 60.000 dân công hỏa tuyến, lập 15 bệnh viện dã chiến, 17 đội điều trị với tổng số 10.000 giường, phục vụ bộ đội tiến công Sài Gòn – Gia Định.[6]

Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh khẩn trương hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến trên cơ sở phương án cũ đã được Trung ương Cục thông qua.

Thế trận tại chỗ đã bày xong. Ngày 22 tháng 4 năm 1975, lần cuối cùng, kế hoạch tiến công Sài Gòn – Gia Định được Đảng ủy và Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh thông qua và phê duyệt.

Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị họp, giữa lúc công việc chuẩn bị mọi mặt từ Bộ thống soái tối cao đến Bộ tư lệnh và các đơn vị ở chiến trường trọng điểm cơ bản đã hoàn thành. Năm mục tiêu quan trọng đã được Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh xác định là: sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, dinh Tổng thống ngụy quyền, Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát.

Sau khi kiểm tra lại lần cuối việc chuẩn bị cho trận đánh quyết định, cuộc họp kết thúc trong không khí náo nức, phấn khởi, quyết tâm, sẵn sàng đón tin chiến thắng.

Giờ phút quyết định đã điểm. Chiến trường Nam Bộ bùng lên như một cơn lốc.

Theo kế hoạch, 5 giờ 30 phút sáng 30 tháng 4 năm 1975, các hướng đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Đến 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng 390 đã húc tung cánh cổng chính của dinh Độc Lập – sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. 11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân đội Nhân dân Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh Độc Lập, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Cùng lúc này, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là Dương Văn Minh và toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn có mặt đầy đủ trong dinh Độc Lập đã bị quân giải phóng bắt sống. Tổng thống ngụy Dương Văn Minh đã phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trước quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Chiến tranh kết thúc.

Từ thủ đô Hà Nội, nhận được tin chiến thắng, thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã gửi ngay bức điện khen ngợi: “Toàn thể cán bộ, chiến sĩ tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào Sài Gòn – Gia Định thân mến. Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Sài Gòn – Gia Định, khen ngợi toàn thể cán bộ và chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên, thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội tinh nhuệ, dân quân tự vệ đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập chiến công chói lọi, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc ngụy quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn – Gia Định, đưa chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng. Toàn thể các đồng chí hãy nêu cao tinh thần quyết thắng cùng đồng bào tiếp tục tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu của Tổ quốc”.[7]

Vậy là sau 5 ngày chiến đấu liên tục (từ 26 đến 30/4/1975), chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành toàn thắng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thu về một mối.

Nếu tính từ ngày 4 tháng 3 năm 1975, khi quân ta bắt đầu nổ súng ở Playcu trong hoạt động nghi binh chiến lược giải phóng Tây Nguyên cho đến ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975, thì toàn bộ cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam đã diễn ra trong 55 ngày đêm, thật là một sự trùng hợp kỳ lạ với 55 năm ngày đêm của Chiến dịch Điện Biên Phủ cách đó 21 năm. Vậy là hai chiến dịch có hai cách đánh khác nhau. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, phương châm là “đánh chắc, tiến chắc”, thì trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, phương châm là “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Dù là hai cách đánh khác nhau nhưng đều đi đến thắng lợi cuối cùng đánh đổ hai thực dân đế quốc hùng mạnh nhất lúc bấy giờ là Pháp và Mỹ. Đó là minh chứng hùng hồn cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng; truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam; quyết không cam chịu làm nô lệ; quyết đánh đuổi giặc ngoại xâm giành độc lập tự do cho dân tộc.

Sự kiện chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã một lần nữa chứng minh chân lý bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Ý Nghĩa Lịch Sử Đại Thắng Mùa Xuân Năm 1975 trên website Asianhubjobs.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!